NHẬN THỨC TRỌN VẸN VỀ TỪNG KHOẢNH KHĂC SỐNG.
Thậm chí trong lĩnh vực khoa học vật lý, những thực tại khách quan mới trở nên rõ ràng chỉ trong thế kỷ 20. Vì mãi cho đến cuối thế kỷ 19, thực tại vật lý dường như đang còn là một cái gì đó chưa được định nghĩa một cách chính xác, và chỉ được giải thích khi chúng được dựa vào những định luật, từ đó người ta mới có thể dự đoán chính xác tiến trình của hiện tượng vật lý.
Nhưng ngày nay chúng ta cũng biết rằng, thực tại vật lý thực ra cũng chưa thể nắm bắt được, và dường như nó đang chống lại những nỗ lực nhằm xác định nó một cách chính xác. Hãy cho phép tôi cố gắng chứng minh điều này bằng một ví dụ. Khi các nhà khoa học kiểm tra sát sao bản chất của ánh sáng, thì họ thấy rằng nó chỉ là bức xạ điện từ truyền trong không gian, và được điều chỉnh bởi những định luật điện từ. Điều này đã được công nhận để giải thích và thoả mãn được hầu như mọi hành vi của ánh sáng: sự phản chiếu, sự khúc xạ, sự tán sắc của ánh sáng v.v… Nhưng khi các nhà khoa học đã kiểm tra chặt chẽ sự hấp thụ và phát xạ của ánh sáng, họ thấy rằng nó luôn luôn được hấp thu hay phát ra trong những chùm tia ánh sáng được gọi là photon. Do vậy mà Einstein đã đưa ra phương trình nổi tiếng của ông về năng lượng của một photon E = hf, trong đó f là tần số của sóng ánh sáng, h là một hằng số vũ trụ, còn được gọi là hằng số Planck. Thực tại đơn giản này hoá ra lại có một chiều sâu về ý nghĩa triết học.
Chúng ta hãy quan sát một chùm tia ánh sáng chiếu vào một tấm kính. Giả sử 10% ánh sáng bị phản xạ và 90% ánh sáng được truyền đi. Bây giờ, nếu năng lượng trong chùm tia ánh sáng được lượng tử hóa thành những photon, thì làm thế nào để có thể dự đoán được hành vi của một photon đơn lẻ khi nó chiếu xuống tấm kính? Nó sẽ đi vào các chùm tia phản xạ hay nó đi vào chùm tia truyền qua? Người ta chỉ có thể nói rằng có 90% xác suất của nó đi vào chùm tia truyền, và 10% của nó đi vào các chùm tia phản xạ. Có nghĩa là, hành vi của một cá thể photon vốn đã không thể nào đoán trước được. Điều này lại mâu thuẫn với tất cả các định luật vật lý cổ điển, theo đó, cùng một nguyên nhân sẽ tạo ra một hiệu ứng giống nhau, và hành vi này hoàn toàn có thể xác định được. Vì vậy, ngay cả trong thế giới vật lý, đã có một cái gì không chắc chắn nằm trong việc dự đoán hành vi của một hệ thống. Các phân tử nhỏ hơn, hay lớn hơn cũng không thể dự đoán chắc chắn được hành vi của chúng.
Cơ học lượng tử thừa nhận nguyên lý bất định như này là một định luật cơ bản của vũ trụ. Cơ học lượng tử cũng thừa nhận rằng, sự tương tác của người quan sát ảnh hưởng đến kết quả quan sát, và do đó đã hạn chế độ chính xác vốn đã có sẵn ở một người quan sát. Người ta yêu cầu giải thích thực tại này bằng ngôn từ đơn giản, hay một mô hình hợp lý cho trí não hạn chế của chúng ta hiểu được, và dĩ nhiên cần phải dung hòa vật lý cổ điển vào trong một số lĩnh vực trải nghiệm hạn chế hàng ngày của chúng ta. Điều này giải thích được lý do tại sao chúng ta không thể trực tiếp cảm nhận một thực tại liên tục phi thời gian và không gian, mặc dù nó đã được chứng minh bằng toán học và xác minh bằng thực nghiệm. Trong trải nghiệm nghiệm hàng ngày của chúng ta, không gian và thời gian là hai thực thể độc lập, không tương tác nhau, cho nên tâm trí của chúng ta đã từ chối chấp nhận nhìn thực tại như khoa học đã chứng minh.
Tương tự như thế, thực ra hành vi của ánh sáng trong một số thí nghiệm giống như sóng và một số khác lại khác giống như hạt, đó chính là điều vô cùng khó hiểu cho tâm trí của chúng ta, vì chúng ta muốn thực tại phải phù hợp với một mô hình đơn giản mà chúng ta có thể hiểu được. Thật vậy, ngay cả Einstein cũng đã từ chối chấp nhận triết lý cơ học lượng tử, ông ta đã nói, 'Tôi không tin rằng Thiên Chúa chơi trò súc sắc. " Mãi cho đến cuối đời, ông ta vẫn tin rằng chúng ta không thể nào dự đoán chính xác hành vi cá thể của một hạt, một phần do sự hạn chế của chúng ta, và phần khác là chúng không thể dựa vào một định luật cơ bản tự nhiên nào.
Vì vậy, nếu tâm trí của chúng ta chỉ trải nghiệm bằng những lập trình của quá khứ, bởi kiến thức của quá khứ, thì tất cả những thứ ấy sẽ hạn chế khả năng của chúng ta, kể cả nhận thức về thực tại vật lý. Sự khó khăn này cũng giống như con người tự quan sát tình trạng tâm lý của bản thân, và do đó sự tương tác giữa người quan sát và đối tượng quan sát là vô cùng lớn. Thật vậy, trong vật lý lượng tử, nhà quan sát không khác mấy với đối tượng quan sát!
Bởi vì tầm nhìn toàn diện không phải là một cái gì đó 'đạt' được bằng một tâm trí hạn hẹp, nó chỉ có thể sống với nghi vấn, mà không có trả lời. Khi đã nhận thức được sự giới hạn của mình, thì người ta đã ngừng không đưa ra thêm nhiều tính chất quan trọng về bản thân thực tại nữa, và trong quá trình đó, có thể họ đã có một sự lắng dịu tự nhiên. Rõ ràng chỉ có yên tĩnh tự nhiên, một tâm trí trong tĩnh lặng, may ra mới có thể có được một nhận thức toàn diện về thực tại. Tâm trí yên tĩnh này không thông qua nỗ lực, thông qua thực hành, thông qua sự tự kiểm soát, mà nhận ra rằng đó là sự sự vô ích của bản thân chúng ta và nên dừng sự can thiệp ở đó.
Đây là thách thức lớn nhất mà cuộc sống đang đặt ra trước khi con người có được một nhận thức toàn diện về thực tại.
Jiddu Krishnamurti – The Holistic Perception Of Reality.
Nhưng ngày nay chúng ta cũng biết rằng, thực tại vật lý thực ra cũng chưa thể nắm bắt được, và dường như nó đang chống lại những nỗ lực nhằm xác định nó một cách chính xác. Hãy cho phép tôi cố gắng chứng minh điều này bằng một ví dụ. Khi các nhà khoa học kiểm tra sát sao bản chất của ánh sáng, thì họ thấy rằng nó chỉ là bức xạ điện từ truyền trong không gian, và được điều chỉnh bởi những định luật điện từ. Điều này đã được công nhận để giải thích và thoả mãn được hầu như mọi hành vi của ánh sáng: sự phản chiếu, sự khúc xạ, sự tán sắc của ánh sáng v.v… Nhưng khi các nhà khoa học đã kiểm tra chặt chẽ sự hấp thụ và phát xạ của ánh sáng, họ thấy rằng nó luôn luôn được hấp thu hay phát ra trong những chùm tia ánh sáng được gọi là photon. Do vậy mà Einstein đã đưa ra phương trình nổi tiếng của ông về năng lượng của một photon E = hf, trong đó f là tần số của sóng ánh sáng, h là một hằng số vũ trụ, còn được gọi là hằng số Planck. Thực tại đơn giản này hoá ra lại có một chiều sâu về ý nghĩa triết học.
Chúng ta hãy quan sát một chùm tia ánh sáng chiếu vào một tấm kính. Giả sử 10% ánh sáng bị phản xạ và 90% ánh sáng được truyền đi. Bây giờ, nếu năng lượng trong chùm tia ánh sáng được lượng tử hóa thành những photon, thì làm thế nào để có thể dự đoán được hành vi của một photon đơn lẻ khi nó chiếu xuống tấm kính? Nó sẽ đi vào các chùm tia phản xạ hay nó đi vào chùm tia truyền qua? Người ta chỉ có thể nói rằng có 90% xác suất của nó đi vào chùm tia truyền, và 10% của nó đi vào các chùm tia phản xạ. Có nghĩa là, hành vi của một cá thể photon vốn đã không thể nào đoán trước được. Điều này lại mâu thuẫn với tất cả các định luật vật lý cổ điển, theo đó, cùng một nguyên nhân sẽ tạo ra một hiệu ứng giống nhau, và hành vi này hoàn toàn có thể xác định được. Vì vậy, ngay cả trong thế giới vật lý, đã có một cái gì không chắc chắn nằm trong việc dự đoán hành vi của một hệ thống. Các phân tử nhỏ hơn, hay lớn hơn cũng không thể dự đoán chắc chắn được hành vi của chúng.
Cơ học lượng tử thừa nhận nguyên lý bất định như này là một định luật cơ bản của vũ trụ. Cơ học lượng tử cũng thừa nhận rằng, sự tương tác của người quan sát ảnh hưởng đến kết quả quan sát, và do đó đã hạn chế độ chính xác vốn đã có sẵn ở một người quan sát. Người ta yêu cầu giải thích thực tại này bằng ngôn từ đơn giản, hay một mô hình hợp lý cho trí não hạn chế của chúng ta hiểu được, và dĩ nhiên cần phải dung hòa vật lý cổ điển vào trong một số lĩnh vực trải nghiệm hạn chế hàng ngày của chúng ta. Điều này giải thích được lý do tại sao chúng ta không thể trực tiếp cảm nhận một thực tại liên tục phi thời gian và không gian, mặc dù nó đã được chứng minh bằng toán học và xác minh bằng thực nghiệm. Trong trải nghiệm nghiệm hàng ngày của chúng ta, không gian và thời gian là hai thực thể độc lập, không tương tác nhau, cho nên tâm trí của chúng ta đã từ chối chấp nhận nhìn thực tại như khoa học đã chứng minh.
Tương tự như thế, thực ra hành vi của ánh sáng trong một số thí nghiệm giống như sóng và một số khác lại khác giống như hạt, đó chính là điều vô cùng khó hiểu cho tâm trí của chúng ta, vì chúng ta muốn thực tại phải phù hợp với một mô hình đơn giản mà chúng ta có thể hiểu được. Thật vậy, ngay cả Einstein cũng đã từ chối chấp nhận triết lý cơ học lượng tử, ông ta đã nói, 'Tôi không tin rằng Thiên Chúa chơi trò súc sắc. " Mãi cho đến cuối đời, ông ta vẫn tin rằng chúng ta không thể nào dự đoán chính xác hành vi cá thể của một hạt, một phần do sự hạn chế của chúng ta, và phần khác là chúng không thể dựa vào một định luật cơ bản tự nhiên nào.
Vì vậy, nếu tâm trí của chúng ta chỉ trải nghiệm bằng những lập trình của quá khứ, bởi kiến thức của quá khứ, thì tất cả những thứ ấy sẽ hạn chế khả năng của chúng ta, kể cả nhận thức về thực tại vật lý. Sự khó khăn này cũng giống như con người tự quan sát tình trạng tâm lý của bản thân, và do đó sự tương tác giữa người quan sát và đối tượng quan sát là vô cùng lớn. Thật vậy, trong vật lý lượng tử, nhà quan sát không khác mấy với đối tượng quan sát!
Bởi vì tầm nhìn toàn diện không phải là một cái gì đó 'đạt' được bằng một tâm trí hạn hẹp, nó chỉ có thể sống với nghi vấn, mà không có trả lời. Khi đã nhận thức được sự giới hạn của mình, thì người ta đã ngừng không đưa ra thêm nhiều tính chất quan trọng về bản thân thực tại nữa, và trong quá trình đó, có thể họ đã có một sự lắng dịu tự nhiên. Rõ ràng chỉ có yên tĩnh tự nhiên, một tâm trí trong tĩnh lặng, may ra mới có thể có được một nhận thức toàn diện về thực tại. Tâm trí yên tĩnh này không thông qua nỗ lực, thông qua thực hành, thông qua sự tự kiểm soát, mà nhận ra rằng đó là sự sự vô ích của bản thân chúng ta và nên dừng sự can thiệp ở đó.
Đây là thách thức lớn nhất mà cuộc sống đang đặt ra trước khi con người có được một nhận thức toàn diện về thực tại.
Jiddu Krishnamurti – The Holistic Perception Of Reality.