Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

KHÁM PHÁ CHÂN LÝ từ "NGHỆ THUẬT NGHE - NHÌN"


BẠN "NGHE THẤY" GÌ TỪ ÂM của "ĐÔI BÀN TAY  MỘT BÀN TAY"..? Đây là một thách thức trong mọi khoảnh khắc để KHÁM PHÁ CHÂN LÝ.

Ảnh của SốngThiền LêHiến.

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015

LÒNG TỪ BI - THÁNH THIỆN

TRĂNG CÓ THỂ KHI MỜ, KHI TỎ
CON NƯỚC KIA LÚC CẠN, LÚC ĐẦY,
TA ẨN-HIỆN GIỮA DÒNG ĐỜI NGHIỆT NGÃ…..
NHƯNG TÌNH YÊU NGÀN ĐỜI VẪN THẾ.
TIẾNG NÓI TÌNH YÊU HẠNH PHÚC

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Nếu không có động lực chuyển đổi.


Nếu không có động lực chuyển đổi.
Tôi làm sao để chuyển hóa? Tôi nhìn thấy sự thật - ít nhất là, tôi nhìn thấy một cái gì đó trong nó - rằng một sự thay đổi, một sự biến đổi, phải bắt đầu ở một mức độ tâm thức, như là có ý thức hay vô thức, không thể tiếp cận, bởi vì ý thức của tôi như là một tổng thể có điều kiện. Vì vậy, cái gì tôi phải làm? Tôi hy vọng tôi làm cho vấn đề rõ ràng? Nếu tôi có thể nói một cách khác, có thể tâm trí của tôi, ý thức cũng như vô thức, được tự do trong xã hội? xã hội là tất cả các nền giáo dục, văn hóa, là chuẩn mực, các giá trị, các tiêu chuẩn. Bởi vì nếu nó không phải là tự do, rồi bất cứ điều gì thay đổi nó sẽ cố gắng để mang về trong trạng thái có điều kiện vẫn còn hạn chế, và do đó không có thay đổi, chuyển biến ở tất cả.
Vì vậy, tôi có thể nhìn mà không có bất kỳ động cơ? tâm trí của tôi có thể tồn tại mà không có sự khuyến khích, không có bất kỳ động lực để thay đổi hay không thay đổi? Bởi vì bất kỳ động cơ là kết quả của sự phản ứng của một nền văn hóa đặc biệt, được sinh ra trong một bối cảnh cụ thể. Vì vậy, có thể tâm trí của tôi được tự do từ nền văn hóa nhất định, trong đó tôi đã được nuôi dưỡng? Đây thực sự là một câu hỏi khá quan trọng. Bởi vì Nếu cái trí là không tự do từ sự nền văn hóa mà nó đã được nuôi dưỡng, vun đắp, chắc chắn các cá nhân có thể không bao giờ có hòa bình, không bao giờ có thể có tự do. Các vị thần của mình và thần thoại của mình, biểu tượng của mình, và tất cả các nỗ lực của mình có hạn, bởi vì họ vẫn nằm trong lĩnh vực tâm trí có điều kiện. Bất cứ điều gì nỗ lực anh làm, hoặc không thực hiện, trong đó lĩnh vực hạn chế, có thực sự vô ích trong ý nghĩa sâu xa nhất của từ ngữ đó. Có thể có một vật trang trí tốt hơn của nhà tù, nhiều ánh sáng - nhiều cửa sổ, tốt hơn thực phẩm nhưng nó vẫn là một nhà tù của một nền văn hóa cụ thể ".
J. Krishnamurti, The Book of Life

Một cuộc cách mạng tâm lý


Một cuộc cách mạng tâm lý
Liệu có thể dành cho người suy nghĩ và suy nghĩ, dành cho người quan sát và vật được quan sát, là một? Bạn sẽ không bao giờ tìm ra nếu bạn chỉ nhìn lướt qua vấn đề này một cách hời hợt và yêu cầu tôi giải thích những gì tôi có nghĩa là “cái này hay cái kia”. Chắc chắn, đây là vấn đề của bạn, nó không phải là vấn đề chỉ của tôi; bạn không ở đây để tìm hiểu cách tôi nhìn vào vấn đề này hoặc các vấn đề của thế giới. Điều này chiến đấu không ngừng bên trong, mà như vậy là phá hoại, vì thế càng xấu đi; nó là vấn đề của bạn, phải không? Và nó cũng là sự cố, vấn đề của bạn cách nào để mang lại một sự thay đổi căn bản trong chính mình và không thể hài lòng với cuộc cách mạng hời hợt trong chính trị, kinh tế, trong các cơ quan khác. Bạn không phải cố gắng để hiểu được tôi hay cách mà tôi nhìn vào cuộc sống. Bạn đang cố gắng để hiểu chính mình, và đây là những vấn đề của bạn mà bạn phải đối mặt; và bằng cách xem xét chúng lại với nhau đó là những gì chúng ta đang cùng làm trong các cuộc thảo luận, chúng ta có lẽ có thể giúp đỡ lẫn nhau để nhìn vào chúng thông suốt hơn, nhìn thấy chúng rõ rệt hơn. Nhưng để nhìn thấy thông suốt chỉ ở mức bằng lời nói là không đủ. Điều đó không mang lại một sự thay đổi tâm lý sáng tạo. Chúng ta phải đi xa hơn những từ ngữ, ngoài tất cả các biểu tượng và cảm giác của chúng.
Chúng ta phải đặt sang một bên tất cả những điều này và đi đến vấn đề trung tâm, cách để giải tán "tôi" trong đó là thời gian ràng buộc, trong đó không có tình yêu, không có lòng từ bi, lòng thương xót. Nó có thể đi xa hơn chỉ khi cái trí năng không phân biệt chính nó như là một người tư tưởng và những suy nghĩ. Khi nào là người suy nghĩ và những ý nghĩ là một, chỉ sau đó là có sự im lặng, sự im lặng mà không có hình ảnh-thực hiện hoặc chờ đợi kinh nghiệm hơn nữa. Trong sự im lặng mà không có người trải nghiệm người đã đang trải qua, và chỉ sau đó là có một cuộc cách mạng tâm lý cũ kỹ mà là sáng tạo.
J. Krishnamurti, The Book of Life

Bản chất bên trong của sự thay đổi này.


Bản chất bên trong của sự thay đổi này.
Hầu hết chúng ta phải nhận thức được rằng một sự thay đổi cơ bản là cần thiết. Chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, và phải có một cách khác, có lẽ một cách hoàn toàn khác biệt - để tiếp cận tất cả những vấn đề này. Và có vẻ như với tôi rằng, trừ khi chúng ta hiểu được bản chất bên trong của sự thay đổi này, chỉ cải cách, một cuộc cách mạng trên bề mặt, sẽ có rất ít ý nghĩa. Là những gì cần thiết, chắc chắn, không phải là một sự thay đổi bề ngoài, không phải là một điều chỉnh tạm thời hoặc sự phù hợp với một mô hình mới, mà là một sự chuyển biến cơ bản của tâm trí, một sự thay đổi đó sẽ là toàn bộ, không chỉ là một phần.
J.Krishnamurti

NĂNG LƯỢNG “SỐNG” THUẦN KHIẾT.

NĂNG LƯỢNG “SỐNG” THUẦN KHIẾT.
THIỀN ĐỊNH là HÀNH ĐỘNG SÁNG TẠO THẾ GIỚI MỚI TƯƠI VUI-YÊU THƯƠNG TRONG THỰC TẠI. HẠNH PHÚC TUYỆT VỜI với CHUNG TA là ĐƯỢC ĐI DẠO-LÀM VIỆC-ĂN UỐNG-NGHE NHẠC-UỐNG TRÀ-TRÒ CHUYỆN… CÙNG NHAU trong MỐI QUAN HỆ THÂN THIỆN của CON NGƯỜI. SỰ TƯƠNG GIAO là SỰ KIỆN THỰC trong ĐỜI SỐNG. 
SỰ THẬT là TÌNH YÊU_THƯƠNG. TÌNH YÊU CHÂN LÝ.
TRÍ THÔNG MINH KHAI SÁNG TÂM TRÍ(thoát khỏi sự dính mắc của quá khứ).
CHÂN LÝ là THẾ GIỚI TƯƠI MỚI SÁNG TẠO của TÌNH YÊU.

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Làm thế nào để thoát khỏi niềm khát vọng được tin chắc, không nghi ngờ?

Hỏi : Làm thế nào để thoát khỏi niềm khát vọng được tin chắc, không nghi ngờ?
Krishnamurti đáp : Từ ngữ làm thế nào ngụ ý một phương pháp, phải không? Nếu bạn là một nhà xây dựng và tôi hỏi bạn cách xây một căn nhà, thì bạn có thể chỉ cho tôi phải làm cái gì, vì việc ấy có một phương pháp, một hệ thống, một cách thức để khởi sự. Nhưng đi theo con đường phương pháp, hệ thống, là tâm trí đã bị điều kiện hóa, cho nên hãy thấy sự khó khăn trong việc dùng từ ngữ làm thế nào.
Rồi thì chúng ta cũng phải hiểu thế nào là khát vọng.
- Khát vọng là gì?
Đó là nhìn thấy hoặc nhận thức, rồi đến tiếp xúc hoặc va chạm, rồi có cảm giác, cuối cùng đi tới chỗ mà chúng ta gọi là khát vọng. Chắc chắn đây là trình tự xẩy ra. Xin hãy theo sát vấn đề.
Này nhé, thí dụ chúng ta đang ngắm chiếc xe hơi đẹp. Chỉ mới ngay cái chuyện ngắm thôi, dù là không hề đụng chạm đến nó, là đã nẩy ra cảm giác, cái cảm giác này tạo cho chúng ta cái khát vọng được leo lên lái, được làm chủ cái xe.
Chúng ta không bàn đến chuyện làm sao để chống cự lại hoặc giải thoát ra khỏi niềm khát vọng, bởi vì cái con người chống cự lại và tưởng rằng anh ta đã thoát khỏi được niềm khát vọng, thực tế là anh ta đã tê liệt, như xác chết. Điều quan trọng là phải hiểu thấu đáo toàn bộ quá trình của khát vọng, nghĩa là phải biết rõ cả mặt quan trọng lẫn mặt hoàn toàn không đáng kể của nó. Người ta phải tìm ra, không phải là làm thế nào để chấm dứt khát vọng, mà là cái gì đã tiếp tay cho khát vọng.
Thế bây giờ chúng ta tìm coi cái gì đã tiếp tay cho khát vọng? Đó là sự suy tưởng, không phải sao?
Đầu tiên là nhìn thấy cái xe, rồi đến cảm giác, rồi đến lòng ham muốn, khát vọng, tiếp liền theo cảm giác. Nếu tư tưởng không xen vào và tiếp tay cho khát vọng bằng cách hô hoán lên "Tôi phải có chiếc xe đó, làm thế nào để tôi có nó?", thì lòng ham muốn, khát vọng, đã tàn lụi, bạn có thấy chỗ này không? Tôi không đòi hỏi rằng phải giải thoát khỏi khát vọng, mà ngược lại. Nhưng bạn phải hiểu rõ toàn bộ cấu trúc của niềm khát vọng, rồi thì bạn sẽ thấy không còn có sự tiếp nối của khát vọng nữa, mà toàn bộ sẽ chuyển qua một hướng khác.
Cho nên, điều quan trọng không phải là khát vọng, mà thực tế là chúng ta tiếp sức cho khát vọng được duy trì. Thí dụ như chúng ta nuôi dưỡng tình dục qua tư tưởng, qua những ý niệm, qua những hình ảnh, qua những cảm giác, qua kỷ niệm. Chúng ta nuôi sống ký ức bằng sự suy nghĩ về nó, và toàn bộ những chuyện đó tiếp sức duy trì lòng ham muốn tình dục và sự quan trọng của những giác quan. Tôi không nói rằng những giác quan không quan trọng, có chứ. Nhưng chúng ta đã cho niềm hoan lạc của những giác quan một sự tiếp diễn liên tục khiến cho nó trở thành quan trọng một cách quá đáng trong cuộc đời chúng ta.
Vậy thì vấn đề không phải là giải thoát khỏi khát vọng, mà là hiểu thấu đáo cấu trúc của khát vọng và cung cách mà tư tưởng làm cho khát vọng duy trì liên tục, chỉ có vậy thôi. Được như thế thì tâm trí bạn sẽ khai phóng, và bạn sẽ không còn phải tìm cách để thoát khỏi lòng ham muốn, khát vọng.
Ngay giây phút mà bạn tìm cách thoát ly khỏi khát vọng là bạn đã bị lọt vào mâu thuẫn rồi. Mỗi khi bạn nhìn cái xe, người đàn bà, ngôi nhà, hay bất cứ cái gì có thể hấp dẫn, lôi cuốn bạn, là tư tưởng sẽ nhẩy ngay vào để tạo cho khát vọng một sự tiếp diễn, liên tục, và rồi thì chúng trở thành vấn đề rắc rối kéo dài tới vô tận.
Điều quan trọng là sống một cuộc đời thanh thản, không mảy may phiền não. Bạn có thể sống không phiền não nếu bạn hiểu rõ bản chất của sự cố gắng và nhìn cho thật rõ toàn bộ cấu trúc của khát vọng.
Phần đông chúng ta vốn đã có hàng ngàn vấn đề rắc rối, và để thoát khỏi những chuyện đó, chúng ta phải có khả năng giải quyết từng vấn đề ngay lập tức, khi nó vừa mới xuất hiện.
Dĩ nhiên điều thật cần thiết là đừng để cho tâm trí chúng ta phải chịu đựng một điều phiền nhiễu nào, và như thế, chúng ta sẽ được sống một cuộc đời thanh thản. Chắc chắn chỉ có một tinh thần như thế mới xứng đáng gọi là tinh thần Sống Đạo, bởi vì nó đã thấu hiểu được nỗi đau khổ và sự chấm dứt đau khổ.
Tinh thần sống ấy không còn sợ hãi, và do đó, tự chiếu sáng nội tâm.
Krishnamurti -- On God

GIẢI THOÁT KHỎI DÍNH MẮC

J.KRISHNAMURTI: 
GIẢI THOÁT KHỎI DÍNH MẮC
*** Trong trạng thái say-ngất ngây không vì một nguyên nhân, mục đích có một nguồn cảm xúc mãnh liệt giải thoát người ta ra khỏi mọi ràng buộc, dính mắc.
Nhưng khi sự đê mê lại vì có một lý do(mục đích) nào đó, thì hiển nhiên là sẽ có dính mắc, ràng buộc, và rồi cái dính mắc, ràng buộc đó nó sẽ đem đến buồn phiền. Phần đông chúng ta đều bị dính mắc, chúng ta gắn bó với một người, một quốc gia dân tộc, một niềm tin, một lý tưởng, và khi mà mục tiêu của cái mà chúng ta gắn bó bị mất đi, hoặc mất cái ý nghĩa của nó, thì chúng ta cảm thấy trống vắng, thiếu thốn, cảm giác hụt hẫng, buồn chán.
Từ cái trống vắng-rỗng không này, chúng ta cố gắng bù đắp bằng cách lại bám víu vào một cái gì khác, và rồi nó lại sẽ trở nên đối tượng cho sự đê mê của chúng ta. (Trích The Book of Life)

CẢM NHẬN THỰC TẠI

J.KRISHNAMURTI: CẢM NHẬN THỰC TẠI
Chúng ta đừng khởi đầu bằng từ bất cứ sự kết luận nào, từ bất cứ niềm tin nào, từ bất cứ giáo điều nào đã nhồi nắn tâm trí của chúng ta, mà phải từ cái tâm trí hoàn toàn tự do, mới mẻ, để mà quan sát, mà học hỏi, mà chuyển động, hành xử. Đó là cái tâm từ bi, thương xót không vì một lý do, ý đồ nào, không từ một lý luận nào dẫn đến. Lòng từ bi, nỗi niềm trắc ẩn xuất hiện khi tâm trí được hoàn toàn tự do, không bị điều kiện hóa, đó là nền tảng của một cuộc đổi mới về tâm lý. Cuộc đổi mới tâm lý này là điều chúng ta cần quan tâm từ đầu tới cuối.
Chúng ta hãy tự hỏi: Trong cuộc đời, chúng ta tìm tòi cái gí?
Phải là một thân thể cường tráng không?
Phải là một đời sống an toàn không?
Tự đáy lòng sâu thẳm, chúng ta có cái khát vọng rằng tất cả mọi hoạt động của chúng ta đều được bảo đảm, an toàn; tất cả mọi liên hệ của chúng ta đều được ổn định, chắc chắn, vĩnh viễn. Chúng ta vướng mắc vào cái kinh nghiệm đã cho chúng ta một số phẩm chất nào đó về sự ồn định, hoặc một sự xác nhận nào đó nó cho chúng ta cái cảm giác về một sự trường cửu, mãn nguyện. Trong niềm tin, có sự an toàn; trong sự xác nhận một giáo điều nào đó, chính trị, hoặc tôn giáo, có sự an toàn. Nếu đã lớn tuổi, chúng ta có sự an toàn, hạnh phúc, khi nhớ lại quá khứ, nơi những điều chúng ta đã biết, nơi tình yêu chúng ta đã có, và chúng ta dính mắc vào quá khứ. Khi còn trẻ, chúng ta tưng bừng, thỏa mãn với từng giây phút hiện tại, không thắc mắc về quá khứ hay tương lai. Nhưng từ từ, tuổi trẻ sẽ biến đi dần dần cùng với những khát vọng về một sự ổn định, với tấm lòng khắc khoải về sự bất an, về sự không có cái gì, hoặc người nào, để mà nương dựa, với niềm mong mỏi thiết tha sao cho có được một sự an toàn nào đó để mà bám lấy.
Cuộc đời mỗi người đều bị ràng buộc với tư tưởng. Mà tư tưởng thì luôn luôn từ quá khứ. Với một cái tâm chỉ sống với quá khứ, dính vào quá khứ, thì nó hết khả năng để "sống", để cảm nhận được thực tại.

NIỀM AN LẠC CHÂN THẬT

J.KRISHNAMURTI: NIỀM AN LẠC CHÂN THẬT
Dùng nhãn quan máy móc mà nhìn cuộc đời thì con người ta chỉ là sản phẩm của môi trường sống với những phản ứng khác nhau, chỉ có thể có những nhận thức bằng giác quan. Cuộc sống và những phản ứng phải được kiềm chế bởi một hệ thống quản trị hợp lý hóa khiến cho hoạt động của cá nhân chỉ còn trong phạm vi khuôn khổ mà thôi.
Xin hãy hiểu thấu đáo toàn bộ đặc điểm của cái nhãn quan này. Nó không ý thức về một thực thể tối thượng, không có sự cao siêu huyền bí, không có chuyện nối tiếp đời này, đời sau.
Đích cuối của kiếp sống ngắn ngủi là cái chết, là hết. Khi mà con người ta nghĩ rằng họ chỉ là kết quả của phản ứng trong môi trường sống, thì họ sẽ chỉ còn đuổi theo mục tiêu ích kỷ, tìm sự an toàn cho bản thận, họ sẽ đóng góp vào việc thiết lập một hệ thống bóc lột tàn bạo và chiến tranh.
Rồi thì lại có những người cho rằng con người vốn bản chất là thiêng liêng, vận mệnh đã được an bài và hướng dẫn bởi ơn trên. Những người này khẳng định là họ đang đi tìm Thượng Đế, sự hoàn hảo, tự do, hạnh phúc, tình trạng hiện hữu mà khi đó mọi mâu thuẫn chấm dứt. Niềm tin của họ đặt vào một thực thể tối thượng, đấng sẽ chỉ đạo vận mệnh của họ qua đức tin. Họ sẽ nói rằng cái thực thể huyền bí, hoặc trí tuệ tối cao này đã sáng tạo ra thế giới và cái "Tôi", -- cái bãn ngã, cá nhân -- , là thực thể tự thân trường tồn, vĩnh cửu.
Đôi khi, bạn dùng nhãn quan máy móc nhìn cuộc đời. Lúc khác, khi bạn buồn rầu, bối rối, bạn quay về tín ngưỡng, đi tìm một đấng tối cao để được hướng dẫn và giúp đỡ. Bạn lưỡng lự giữa hai thái cực, trong khi chỉ qua sự hiểu biết thấu đáo được cái ảo giác về cả hai quan điểm đối nghịch, bạn mới có thể tự giải thoát ra khỏi sự hạn chế và cản trở. Bạn thường tưởng là bạn thoát khỏi sự ràng buộc của chúng, thực tế, bạn chỉ có thể thoát khỏi chúng một cách triệt để khi bạn hoàn toàn hiểu thấu cái quá trình tạo dựng những sự hạn chế và triệt tiêu chúng.
Bạn không thể có được sự thâm hiểu thực thể chân thật, thực tại, trong khi mà cái quá trình vô minh từ vô thủy còn tồn tại. Chỉ khi nào cái quá trình này, sự hăm hở tìm tòi do lòng khát vọng, ngưng lại, lúc đó người ta mới có thể cảm nhận được cái gọi là niềm an lạc, hạnh phúc chân thật.
Krishnamurti -- On God

LẮNG NGHE NỘI TÂM BẠN


LẮNG NGHE NỘI TÂM BẠN
Hỏi :Trong lúc ngồi tại đây nghe ông nói thì có vẻ như là tôi hiểu, nhưng khi ra khỏi đây, tôi lại chẳng còn hiểu gì cả, dù rằng tôi đã cố áp dụng theo những lời ông nói.
Krishnamurti: Bạn hãy lắng nghe từ tâm bạn, chứ đừng nghe theo lời diễn giả. Nếu bạn nghe theo diễn giả thì hắn ta sẽ trở thành kẻ lãnh đạo của bạn, sẽ trở thành đường lối để bạn hiểu biết -- điều đó quả là khiếp hãi, ghê tởm, bởi vì như vậy là bạn đã thiết lập một đẳng cấp của thẩm quyền. Cho nên công việc của bạn tại đây là hãy lắng nghe từ chính tâm bạn. Bạn đang nhìn vào hình ảnh mà diễn giả vẽ lên, đó là hình ảnh của chính bạn chứ không phải là hình ảnh của diễn giả. Nếu bạn đã hiểu rõ rằng bạn đang nhìn vào chính bạn, vậy thì bạn có thể nói, " À há, tôi thấy rõ chính tôi, tôi không cần làm gì khác về "cái tôi" đó nữa" -- thế thì kể như là xong chuyện. Nhưng nếu bạn nói, "Tôi thấy rõ chính tôi, và phải có sự thay đổi," và bạn bắt đầu giải quyết theo với sự hiểu biết của chính bạn -- điều đó hoàn toàn khác hẳn vớisự áp dụng những điều diễn giả nói. . . Nếu trong khi diễn giả nói mà bạn cũng nghe cả tiếng nội tâm bạn thì ngoài sự nghe đó ra còn có sự trong sáng, còn có sự nhậy cảm; ngoài sự nghe đó tâm trí trở nên lành mạnh, vững vàng.
Không nhắm mắt tuân theo, không chống đối, tâm hồn trở nên sống động, mẫn cảm -- và chỉ có lớp người như thế mới có thể tạo dựng một thế hệ mới, một thế giới mới.

GIAO CẢM VỚI MUÔN LOÀI

J.KRISHNAMURTI: GIAO CẢM VỚI MUÔN LOÀI
Đã nhiều tuần rồi, mỗi buổi sáng khi trời vừa bình minh là chúng tôi lại cùng nhau ra ngắm cái cây ở bên bờ sông. Xa xa, lúc vừng dương vừa nhú ở mãi tận cuối chân trời, từ từ vươn lên khỏi lùm cây, thì nơi đây, cái ngắm đến quên cả thời gian, thì cái cây, mà tên nó chẳng thành vấn đề -- vấn đề là cái cây tuyệt đẹp ấy -- với cái phẩm chất đặc biệt của nó dường như tỏa ra khắp trên mặt đất, lan tràn trên dòng sông. Rồi thì khi vừng thái dương nhô cao lên chút nữa là lúc mà lá cây bắt đầu rung rinh uốn éo. Thời gian mỗi lúc trôi qua dường như lại giúp cho cái cây thay đổi phẩm chất. Trước khi mặt trời ló dạng, dáng vẻ của nó còn thật là ảm đạm, lặng lẽ, xa xôi, đầy phẩm cách. Ấy thế mà ngay khi mới bắt đầu ngày thì những cánh lá sáng lóng lánh uốn lượn đã tạo nên một cảm quan đặc biệt về vẻ đẹp tuyệt vời của núi đồi.
Về buổi trưa, tàn cây tỏa bóng mát rượi, bạn có thể ngồi nghỉ dưới gốc cây để tránh nắng, không bao giờ cảm thấy cô đơn vì đã có nó làm bạn. Ngồi đó, bạn cảm thấy một mối dây liên hệ gắn bó sâu sắc, bền vững và thoải mái mà chỉ cây cối mới có thể biết được.
Chiều xuống, khi phương tây rực sáng ánh mặt trời đang lặn, thì cái cây cũng từ từ chuyển dần sang mầu sẫm, rồi tối, rồi tự biến mình, mờ dần. Bầu trời chuyển qua đỏ, rồi vàng, rồi xanh, nhưng cái cây vẫn lẳng lặng ẩn mình và yên nghỉ qua đêm.
Nếu bạn thiết lập được mối giao hảo với cây cối thì bạn cũng sẽ có mối giao hảo với loài người. Bạn có trách nhiệm với cây đó và với tất cả cây cối trên thế giới. Nhưng nếu bạn không có mối giao hảo với muôn loài sinh vật trên thế giới này thì bạn cũng có thể mất đi những mối giao hảo với con người, với nhân loại.
Chúng ta không bao giờ nhìn một cách sâu sắc vào đặc tính của một cái cây; chúng ta không bao giờ thật sự sờ vào nó, cảm nhận được sự rắn chắc của nó, lớp vỏ xù xì của nó và nghe cái âm thanh vốn là một phần của cái cây. Âm thanh này không phải là tiếng gió thổi qua lùm cây, không phải là tiếng rì rào của lá vào những buổi sớm mai, nhưng là tiếng của chính cái cây, tiếng âm thầm của thân và rễ cây. Bạn phải thật là tinh tế, mẫn cảm, thì mới có thể nhận ra. Cái âm thanh này không phải là tiếng ồn ào của thế gian, không phải là tiếng lao xao liên tục trong tâm trí, không phải là những lời lẽ thô tục của tranh cãi, đánh lộn, mà là âm thanh như một phần của vũ trụ, của không gian và thời gian.
Đáng buồn là chúng ta có quá ít mối giao hảo với thiên nhiên, với các loài côn trùng, với con ếch nhẩy, với con cú kêu tìm bạn tình trên đồi cây đặc biệt kia bỗng bừng lên một mầu vàng ánh. Toàn thể lá trên cây đều sáng rực đầy sinh khí và khi mà bạn lặng lẽ say sưa cao. Dường như chẳng bao giờ chúng ta có chút cảm xúc nào hướng về muôn loài trên trái đất. Nếu như chúng ta thiết lập được mối giao hảo sâu xa bền chắc với thiên nhiên thì chúng ta đã chẳng bao giờ giết con vật để được ngon miệng, chẳng bao giờ làm tổn thương, mổ xẻ con khỉ, con chó, những con vật trong phòng thí nghiệm, đang khi nó còn sống, vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm những cách khác để điều trị vết thương, để cứu mạng chúng ta. Nhưng điều trị tâm hồn thì lại hoàn toàn khác. Sự hồi phục sẽ tới từ từ nếu chúng ta sống hài hòa với thiên nhiên, với trái cam trên cành cây, với nhánh cỏ nhú lên từ kẽ nứt xi măng, và với những ngọn đồi nằm ẩn dưới những tầng mây bao phủ.
Đây không phải nói theo tình cảm tầm phào hoặc tưởng tượng lãng mạn mà là chuyện thực tế của mối giao hảo với muôn loài đang sống, đang chuyển động trên trái đất. Người ta đã giết hàng triệu con cá voi và sẽ còn giết nữa. Tất cả những gì chúng ta lấy được từ sự tàn sát chúng thì chúng ta cũng có thể có được bằng những cách khác. Nhưng rõ ràng là chúng ta thích giết mọi loài, như con nai phóng vút qua, con linh dương kỳ diệu và con voi to kềnh. Chúng ta thích giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử loài người trên trái đất, sự giết chóc này chưa bao giờ ngưng. Nếu chúng ta có thể, và chúng ta phải, thiết lập một mối tương quan giao hảo bền chặt thâm sâu với thiên nhiên, với cây cỏ, lùm bụi, hoa trái, với đám mây bay trên trời, từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn giết người vì bất cứ lý do nào nữa.
Giết người có tổ chức, được hệ thống hóa, chính là chiến tranh, và mặc dầu chúng ta biểu tình để phản đối một cuộc chiến đặc biệt, thí dụ chiến tranh nguyên tử, hoặc bất cứ loại chiến tranh nào đó, nhưng chúng ta chưa hề biểu tình chống chiến tranh.
Chúng ta chưa hề bao giờ nói lên rằng giết người là tội ác lớn nhất trên đời.

Nhưng liệu ông có thể nhận ra điều đó, khi ông vẫn còn bị trói buộc trong sự sợ hãi của ông.


Người hỏi: Nhưng liệu ông có thể nhận ra điều đó? 
Krishnamurti: Bạn không thể, không thể. Vì vậy – chúng ta quay trở lại câu hỏi – một mảnh mà là sợ hãi, bạn đang cố gắng khuất phục nó bởi một mảnh khác. Đúng chứ? Và bạn không thể xóa sạch nó bằng cách đó. Đúng chứ? Vì vậy phải có một tiếp cận khác hẳn đến mảnh mà bạn gọi là sợ hãi đó. Đúng chứ? Và tiếp cận là như thế này: tuyệt đối không làm gì về mảnh sợ hãi. Đúng chứ? Bạn có thể chứ? Tôi không thể làm bất kỳ điều gì về chiếc xe lửa đang chạy qua đó, tiếng ồn, vì vậy tôi lắng nghe nó. Bạn hiểu rõ không? Làm ơn lắng nghe điều gì tôi đang nói. Tôi không thể làm bất kỳ điều gì về con rắn rung chuông, tiếng ồn, tiếng gầm thét của chiếc xe lửa đó. Vì vậy tôi không dựng lên một kháng cự với nó, vì vậy tôi lắng nghe. Khi tôi lắng nghe không có sự ồn ào. Có sự ồn ào nhưng nó không ảnh hưởng đến tôi. Cùng cách như vậy khi tôi nhận ra tôi bị loạn thần kinh, nhận ra nó, tôi đang bám chặt vào một niềm tin đặc biệt, một cách hành động đặc biệt, tôi là người đồng tính hay bất kỳ là gì chăng nữa, tôi có những thành kiến kinh khủng, Thượng đế tồn tại, Thượng đế không tồn tại. Bạn theo kịp chứ? Khi tôi nhận ra rằng tôi bị quyến luyến vào một sự việc, chỉ lắng nghe nó, trọn vẹn bằng tâm hồn của tôi, không kháng cự nó, lắng nghe nó trọn vẹn.
Điều này có rõ ràng cho buổi bàn luận này, sáng nay? Đó là, chúng ta bắt đầu bằng cách hỏi, nếu chúng ta có thể nhìn toàn bộ chuyển động của sống như một tiến hành đồng nhất – sự giết chóc, những người tị nạn, bảy triệu rưỡi người ở Ấn độ, mà đã vốn nghèo khổ, những công việc kinh doanh tồi tệ, chiến tranh ở Trung đông, những người Thiên chúa giáo, những người Tin lành giáo, những người khoa học, những họa sĩ, những người kinh doanh, cuộc sống riêng tư, cuộc sống công cộng, gia đình của tôi, gia đình của bạn – phân chia, phân chia, phân chia. Và sự phân chia này đã tạo ra một hỗn loạn như thế trong thế giới và trong chính tôi, liệu tôi có thể nhìn tất cả điều này như một chuyển động duy nhất lạ thường hay không? Tôi không thể. Đó là một sự thật. Đúng chứ? Tôi không thể bởi vì tôi bị phân chia trong chính tôi. Tôi bị quy định trong chính tôi. Vì vậy quan tâm của tôi lúc đó không phải là tìm ra làm thế nào sống một sống đồng nhất nhưng xem thử liệu sự phân chia đó có thể kết thúc. Và sự phân chia đó kết thúc chỉ khi nào tôi nhận ra tất cả ý thức của tôi được tạo thành bởi những mảnh vỡ này. Ý thức của tôi là sự phân chia. Và khi tôi nói rằng phải có hòa đồng, được mang lại cùng nhau, nó vẫn còn là bộ phận của ma mãnh đó mà tôi đang đùa cợt vào chính tôi. Vì vậy tôi nhận ra điều đó. Tôi nhận ra nó là sự thật như ngọn lửa đang hừng hực cháy. Tôi không thể lừa gạt tôi, nó là một sự thật, và tôi bị bỏ lại cùng nó. Và tôi phải tìm ra làm thế nào nó vận hành trong sống hàng ngày của tôi. Tôi phải tìm được nó, không phỏng đoán, đùa giỡn, lý luận, bởi vì tôi đã thấy sự thật của nó và sự thật sẽ hành động. Nếu tôi không thấy nó và giả vờ tôi đã thấy nó, vậy thì tôi sẽ tạo ra một đống hỗn loạn kinh tởm trong sống của tôi. Đúng chứ thưa bạn.
SAANEN Ngày 4 tháng 8 năm 1971

Khám phá bên trong kho tiền bí mật lớn nhất Việt Nam

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

CON NGƯỜI ĐANG TÌM KIẾM GÌ TRONG HIỆN TẠI CỦA ĐỜI SỐNG CHÍNH MÌNH ?

CON NGƯỜI ĐANG TÌM KIẾM GÌ TRONG HIỆN TẠI CỦA ĐỜI SỐNG CHÍNH MÌNH




Đây là thiền định.
KRISHNAMURTI
Bombay, ngày 3 tháng 3 năm 1965
Đối với tôi có vẻ rằng qua quá nhiều thế kỷ con người đã luôn luôn tìm kiếm hòa bình, tự do, và một trạng thái hạnh phúc vô cùng mà anh ấy gọi là Thượng đế. Anh ấy đã tìm kiếm nó dưới nhiều danh tính khác nhau và ở nhiều thời điểm khác nhau trong lịch sử, và rõ ràng chỉ một ít người đã tìm được ý thức bên trong của an bình, tự do vô hạn đó, và trạng thái đó mà con người đã gọi là Thượng đế. Trong thời hiện đại nó trở thành sự việc chẳng quan trọng bao nhiêu; chúng ta sử dụng từ ngữ Thượng đế mà chẳng còn bao nhiêu ý nghĩa. Chúng ta luôn luôn đang tìm kiếm một trạng thái của hạnh phúc vô cùng, an bình và tự do khỏi thế giới này, và chúng ta bay bổng trong những hình thức khác nhau khỏi thế giới này để tìm ra cái gì đó mà sẽ vĩnh cửu, mà sẽ cho chúng ta thiêng liêng và thiên đàng, mà sẽ cho chúng ta một ý thức nào đó của tĩnh lặng thăm thẳm bên trong. Dù người ta tin tưởng Thượng đế hay không đều lệ thuộc vào ảnh hưởng tinh thần, truyền thống, môi trường sống. Muốn tìm ra trạng thái hạnh phúc vô cùng đó, tự do đó, an bình lạ thường đó, nó phải là một sự việc đang sống. Tôi nghĩ người ta phải hiểu rõ tại sao người ta không thể đối diện sự kiện và thay đổi sự kiện, và nhờ vậy vượt khỏi nó.
Tôi muốn, nếu tôi được phép nói – hay đúng hơn cùng nhau chuyển tải – tại sao chúng ta luôn luôn trao nhiều quan trọng như thế cho ý tưởng chứ không phải hành động. Mặc dù chúng ta đã nói về nó trong nhiều cách khác nhau và vào những thời điểm khác nhau, tôi muốn tìm hiểu nó trong một cách khác, bởi vì dường như đối với tôi chúng ta có trách nhiệm hoàn toàn, tổng thể đối với xã hội trong đó chúng ta đang sống. Đối với sự đau khổ, sự hoang mang, sự hung bạo khủng khiếp của sự tồn tại hiện đại, mỗi người chúng ta phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và tổng thể. Chúng ta không thể tẩu thoát nó; chúng ta phải thay đổi nó. Con người là bộ phận của xã hội và đã tạo ra xã hội này – anh ấy hoàn toàn và tổng thể chịu trách nhiệm cho việc này – anh ấy phải thay đổi nó; và tạo ra một chuyển đổi, một thay đổi bên trong chính anh ấy và nhờ vậy bên trong khuôn mẫu của xã hội, chỉ có thể được khi anh ấy hoàn toàn kết thúc sự tẩu thoát vào những ý tưởng.
Thượng đế là một ý tưởng lệ thuộc vào môi trường sống, hoàn cảnh, và truyền thống mà trong đó bạn đã được nuôi dưỡng. Trong thế giới Cộng sản, lệ thuộc vào những hoàn cảnh đó, con người không tin tưởng Thượng đế. Ở đây bạn lệ thuộc vào những hoàn cảnh của bạn, vào cuộc sống của bạn, và vào truyền thống của bạn, và bạn đã dựng lên ý tưởng của bạn. Người ta phải tự giải thoát chính mình khỏi những hoàn cảnh này, khỏi xã hội; chỉ đến lúc đó, trong tự do này, một con người mới có thể tìm được cái là sự thật. Nhưng chỉ tẩu thoát vào một ý tưởng được gọi là Thượng đế không giải quyết được vấn đề gì cả.
“Thượng đế” – hay bất kỳ cái tên nào khác mà bạn muốn sử dụng – là sự sáng chế ma mãnh của con người, và chúng ta che đậy sự sáng chế đó, sự ma mãnh đó,, bằng hương trầm, bằng lễ nghi, bằng nhiều hình thức khác nhau của niềm tin, những giáo điều, tách rời con người như những người Thiên chúa giáo, những người Ấn độ giáo, những người Hồi giáo, những người Parsis, những người Phật giáo – tất cả cấu trúc ma mãnh khôn ngoan được sáng chế bởi con người. Con người, vì đã sáng chế ra nó, bị trói buộc trong nó. Nếu không hiểu rõ thế giới hiện nay, thế giới anh ấy sống trong nó – thế giới đau khổ của anh ấy, thế giới hoang mang, sầu muộn, lo âu, thất vọng của anh ấy và sự thống khổ của tồn tại, cô độc hoàn toàn, ý thức của sự vô ích hoàn toàn của cuộc sống – nếu không hiểu rõ tất cả việc đó, chỉ có vô số những ý tưởng, dù thỏa mãn đến chừng nào, không giá trị gì cả.
Rất quan trọng phải hiểu rõ tại sao chúng ta tạo ra hay hình thành một ý tưởng. Tại sao cái trí hình thành một ý tưởng? Tôi có ý qua từ ngữ đang hình thành, đang tạo ra một cấu trúc của những ý tưởng thuộc triết lý hay lý luận hay nhân văn hay duy vật. Ý tưởng là tư tưởng đã được tổ chức; trong tư tưởng, niềm tin, ý tưởng đã được tổ chức đó, con người sống. Đó là điều gì tất cả chúng ta đều làm, dù chúng ta là người tôn giáo hay không tôn giáo. Tôi nghĩ rất quan trọng phải tìm ra tại sao con người qua bao nhiêu thời đại đã cho một quan trọng lạ kỳ như thế đến những ý tưởng. Tại sao chúng ta hình thành những ý tưởng? … Chúng ta hình thành những ý tưởng, nếu người ta quan sát chính mình, khi không có chú ý. Khi bạn hoàn toàn năng động, mà đòi hỏi chú ý tổng thể – mà là hành động – trong đó không có ý tưởng; bạn đang hành động.
Làm ơn, nếu tôi được phép đề nghị, chỉ lắng nghe. Đừng chấp nhận hay phủ nhận; đừng dựng lên những phòng vệ để ngăn cản lắng nghe, bằng cách có những tư tưởng, những niềm tin, những mâu thuẫn riêng của bạn, và tất cả việc đó. Nhưng chỉ lắng nghe. Chúng ta không đang cố gắng thuyết phục bạn về bất kỳ điều gì; chúng ta không đang cưỡng bách bạn qua bất kỳ phương tiện nào để tuân phục vào một ý tưởng, hay một khuôn mẫu, hay một hành động đặc biệt. Chúng ta chỉ đang phát biểu những sự kiện – dù bạn ưa thích hay không ưa thích nó – và điều quan trọng là học hỏi về sự kiện. “Học hỏi” ngụ ý lắng nghe tổng thể, một quan sát trọn vẹn. Khi bạn lắng nghe âm thanh của con quạ (trong cây cối nơi ông ta đang nói), đừng lắng nghe bằng những ồn ào riêng của bạn, bằng những sợ hãi riêng của bạn, bằng những tư tưởng, bằng những ý kiến riêng của bạn, bằng những quan điểm riêng của bạn. Vậy là bạn sẽ thấy rằng không có ý tưởng gì cả, nhưng bạn đang thực sự lắng nghe.
Trong cùng cách, nếu tôi được phép đề nghị, chỉ lắng nghe. Chỉ lắng nghe, không chỉ tầng ý thức bên ngoài nhưng cả tầng ý thức sâu thẳm – mà có lẽ còn quan trọng hơn nhiều. Hầu hết chúng ta đều bị ảnh hưởng. Chúng ta có thể phủ nhận những ảnh hưởng của tầng ý thức bên ngoài; nhưng xóa sạch những ảnh hưởng của tầng ý thức bên trong còn khó khăn vô vàn. Khi bạn đang lắng nghe trong cách này, lúc đó nó là lắng nghe không có cả tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong. Lúc đó bạn chú ý tổng thể. Và chú ý không là chú ý của bạn hay của tôi; nó không thuộc quốc gia, không thuộc tôn giáo, nó không thể phân chia được. Khi bạn đang lắng nghe tổng thể như thế, không ý tưởng; chỉ có một trạng thái lắng nghe. Hầu hết chúng ta làm việc này khi chúng ta đang lắng nghe một điều gì đó khá hay ho, khi có tiếng nhạc cuốn hút, hay khi bạn đang thấy một hòn núi, ánh sáng chiều hôm, hay ánh sáng trên dòng nước, hay một đám mây. Vậy thì trong trạng thái chú ý đó, trong trạng thái đang lắng nghe, đang thấy đó, không có ý tưởng.
Giống như vậy, nếu bạn có thể lắng nghe thật thanh thản, đầy chú ý không nỗ lực đó, vậy thì có lẽ bạn sẽ thấy được sự quan trọng quá nhiều của ý tưởng và hành động. Hầu hết chúng ta hình thành những ý tưởng khi không chú ý. Chúng ta tạo ra hay lập thành những ý tưởng khi những ý tưởng đó cho chúng ta sự an toàn, một ý thức của vĩnh cửu. Và ý thức của vĩnh cửu đó, ý thức của an toàn đó, tạo ra những ý tưởng, và chúng ta tẩu thoát vào những ý tưởng đó; và vì vậy không có hành động. Chúng ta sáng chế hay hình thành những ý tưởng khi chúng ta hoàn toàn không hiểu rõ cái là. Vì vậy những ý tưởng trở thành quan trọng nhiều hơn sự kiện.
Muốn tìm ra, thực sự muốn tìm ra sự thật – liệu có Thượng đế, hay không có Thượng đế, những ý tưởng không có ý nghĩa gì cả. Dù bạn tin tưởng hay không tin tưởng, dù bạn là người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không có ý nghĩa gì cả. Muốn tìm ra, bạn cần tất cả năng lượng của bạn, năng lượng mà không bị vấy bẩn, không bị hỗn tạp, năng lượng mà không bị biến chất, không bị hư hỏng.
Vì vậy muốn hiểu rõ, muốn tìm ra liệu có một sự việc gọi là sự thật đó mà con người đã tìm kiếm trong nhiều triệu năm, người ta phải có năng lượng – năng lượng tổng thể nguyên vẹn, không bị vấy bẩn. Và để mang lại năng lượng đó, chúng ta phải hiểu rõ nỗ lực.
Hầu hết chúng ta dành cuộc sống của chúng ta trong nỗ lực, trong đấu tranh, và nỗ lực, đấu tranh, cố gắng, là một lãng phí của năng lượng đó. Con người, xuyên suốt lịch sử, đã nói rằng muốn tìm ra Sự Thật hay Thượng Đế đó – bất kỳ cái tên gì có lẽ anh ấy tặng cho nó – bạn phải là một người trong trắng; đó là, bạn phải giữ lời thề sống trong trắng và đè nén, kiểm soát, tranh đấu không ngừng nghỉ với chính bạn suốt cuộc đời để giữ lời thề của bạn. Hãy nhìn sự lãng phí qua năng lượng! Nó cũng là sự lãng phí năng lượng khi buông thả. Và nó còn có ý nghĩa nhiều hơn nữa khi bạn đè nén. Nỗ lực bị lãng phí trong đè nén, trong kiểm soát, trong khước từ ham muốn của bạn này, làm biến dạng cái trí của bạn, và qua biến dạng đó bạn có một ý thức nào đó của mộc mạc, mà trở nên khổ hạnh. Làm ơn hãy lắng nghe. Quan sát nó trong chính bạn và quan sát những con người quanh bạn. Và quan sát sự lãng phí của năng lượng này, sự đấu tranh – không phải những hàm ý của ái ân, không phải hành động thực sự, nhưng những lý tưởng, những hình ảnh, vui thú – sự suy nghĩ liên tục về chúng là một lãng phí của năng lượng. Và hầu hết con người lãng phí năng lượng của họ hoặc qua khước từ, hoặc qua một lời thề trong trắng, hoặc suy nghĩ về nó liên tục.
Con người chịu trách nhiệm – bạn và tôi chịu trách nhiệm – cho sự quy định của xã hội trong đó chúng ta sống. Bạn chịu trách nhiệm, không phải những nhà lãnh đạo của bạn bởi vì bạn đã biến những nhà lãnh đạo thành cái gì họ là – ma mãnh, tự tôn vinh chính họ, tìm kiếm chức vụ và thanh danh – mà là cái gì chúng ta đang làm trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta chịu trách nhiệm cho xã hội. Cấu trúc tâm lý của xã hội còn quan trọng hơn phía bên ngoài được tổ chức của xã hội. Cấu trúc tâm lý của xã hội được dựa vào tham lam, đố kị, thâu lợi, ganh đua, tham vọng, sợ hãi, sự đòi hỏi liên tục này của một con người muốn được an toàn trong mọi liên hệ của anh ấy, an toàn trong tài sản, an toàn trong liên hệ của anh ấy với con người, an toàn trong liên hệ của anh ấy với những ý tưởng. Đó là cấu trúc của xã hội mà con người đã tạo ra. Và sau đó xã hội áp đặt thuộc tâm lý cấu trúc của nó vào mỗi người chúng ta. Tham lam, ganh tị, tham vọng, ganh đua, tất cả việc đó là một lãng phí của năng lượng, bởi vì trong nó luôn luôn có xung đột – xung đột vô tận, như trong một con người ganh tị.
Ganh tị là một ý tưởng. Ý tưởng và sự kiện là hai sự việc khác hẳn. Làm ơn hãy lắng nghe. Bạn tiếp cận cảm thấy được gọi là “ganh tị” qua ý tưởng. Bạn không tiếp cận trực tiếp cùng cảm thấy được gọi là ganh tị. Nhưng bạn tiếp cận sự ganh tị qua ký ức của một từ ngữ nào đó mà bạn đã hình thành trong cái trí của bạn như ganh tị. Nó trở thành một ý tưởng, và ý tưởng đó ngăn cản bạn không tiếp xúc trực tiếp cùng cảm thấy đó mà bạn gọi là ganh tị. Lại nữa, đây là một sự kiện. Vì vậy công thức, ý tưởng, ngăn cản bạn không tiếp xúc trực tiếp cùng cảm thấy đó và vì vậy ý tưởng làm lãng phí năng lượng này.
Vì chúng ta chịu trách nhiệm cho đau khổ, cho nghèo đói, cho chiến tranh, cho thiếu vắng hoàn toàn của hòa bình, một con người tôn giáo không tìm kiếm Thượng đế. Con người tôn giáo quan tâm đến sự thay đổi xã hội mà là chính anh ấy. Con người tôn giáo không là con người mà làm vô số những lễ nghi, tuân theo những truyền thống, sống trong một văn hóa quá khứ và chết rồi, giải thích vô tận kinh Gita hay kinh Bible, liên tục cầu kinh, hay giữ những lời thề. Đó không là một con người tôn giáo; một con người như thế đang tẩu thoát những sự kiện. Con người tôn giáo quan tâm tổng thể, trọn vẹn đến sự hiểu rõ xã hội mà là chính anh ấy. Anh ấy không tách rời xã hội. Tạo ra trong chính anh ấy một thay đổi tổng thể, trọn vẹn có nghĩa là kết thúc trọn vẹn tham lam, ganh tị, tham vọng; và vì vậy anh ấy không lệ thuộc vào những hoàn cảnh, mặc dù anh ấy là kết quả của những hoàn cảnh – thực phẩm anh ấy ăn, những quyển sách anh ấy đọc, những cuộn phim anh ấy xem, những giáo điều, những niềm tin, những nghi lễ tôn giáo, và tất cả những việc như thế. Anh ấy có trách nhiệm; và vì vậy con người tôn giáo phải hiểu rõ chính anh ấy, mà là sản phẩm của xã hội do chính anh ấy đã tạo ra. Vì vậy muốn tìm ra sự thật anh ấy phải khởi đầu ở đây, không phải trong một ngôi đền, không phải trong một hình ảnh – dù hình ảnh đó được chạm khắc bởi bàn tay hay bởi cái trí. Nếu không làm thế nào anh ấy có thể tìm ra một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ, một trạng thái mới mẻ?
Hòa bình không là sự mở rộng của luật pháp hoặc quyền lực cai trị. Hòa bình là một cái gì hoàn toàn khác hẳn; nó là một trạng thái bên trong mà không thể đến được bằng cách sửa đổi những hình ảnh bên ngoài, mặc dù thay đổi những hình ảnh bên ngoài cũng cần thiết. Nhưng nó phải khởi đầu bên trong để tạo ra một thế giới khác hẳn. Và muốn tạo ta một thế giới khác hẳn bạn cần năng lượng vô hạn, và lúc này lăng lượng đó đang bị lãng phí trong xung đột liên tục. Vì vậy người ta phải hiểu rõ xung đột này.
Nguyên nhân chính của xung đột là tẩu thoát – tẩu thoát qua ý tưởng. Làm ơn hãy quan sát chính bạn: thay vì giáp mặt – chúng ta tạm nói như thế – ganh tị, ghen tuông, thay vì tiếp xúc trực tiếp cùng nó, bạn nói rằng, “Làm thế nào tôi sẽ vượt khỏi nó? Tôi sẽ làm gì? Những phương pháp giúp đỡ tôi không thể ganh tị là gì?” – tất cả đều là những ý tưởng và vì vậy là một tẩu thoát khỏi sự kiện rằng bạn ganh tị, một chạy trốn khỏi sự kiện rằng bạn ganh tị. Chạy trốn khỏi sự kiện qua những ý tưởng không những lãng phí năng lượng của bạn, mà còn ngăn cản bạn không tiếp xúc trực tiếp cùng sự kiện đó. Bạn phải trao chú ý tổng thể của bạn không qua một ý tưởng. Ý tưởng, như chúng ta đã vạch rõ, ngăn cản chú ý. Vì vậy khi bạn quan sát, hay tỉnh thức được, cảm thấy của ganh tị này, và trao chú ý tổng thể vào nó mà không có những ý tưởng, vậy thì bạn sẽ thấy rằng không chỉ bạn tiếp xúc trực tiếp cùng cảm thấy đó, nhưng bởi vì bạn đã trao chú ý tổng thể của bạn, không qua những ý tưởng, nó không còn hiện diện. Vậy là bạn có năng lượng lớn lao hơn để gặp gỡ biến cố kế tiếp, hay cảm xúc kế tiếp, cảm thấy kế tiếp.
Muốn khám phá, muốn tạo ra một thay đổi trọn vẹn, bạn phải có năng lượng – không phải năng lượng được tạo ra qua đè nén, nhưng năng lượng đó mà đến với bạn khi không còn đang tẩu thoát qua những ý tưởng hay qua đè nén. Thật ra, nếu bạn suy nghĩ về nó, chúng ta biết chỉ có hai cách để gặp gỡ cuộc sống – hoặc chúng ta tẩu thoát khỏi nó hoàn toàn, mà là hình thức ngu dốt dẫn đến loạn thần kinh, hoặc chúng ta đè nén mọi thứ bởi vì chúng ta không hiểu rõ. Đó là tất cả mà chúng ta biết.
Đè nén không chỉ là đặt một nắp đậy lên trên bất kỳ cảm thấy hay bất kỳ cảm xúc nào, nhưng nó còn là một hình thức của giải thích, lý luận thuộc trí năng. Làm ơn hãy quan sát chính bạn và bạn sẽ thấy điều gì đang được nói đúng thực như thế nào. Vì vậy rất cần thiết rằng bạn phải không tẩu thoát. Và đó là một trong những sự việc quan trọng nhất phải tìm ra, không bao giờ tẩu thoát. Đó là một trong những sự việc khó khăn nhất – tìm ra – bởi vì chúng ta tẩu thoát khỏi sự kiện không chỉ bằng cách chạy đến một ngôi đền và mọi việc như thế, nhưng còn qua những từ ngữ, qua những tranh luận, những quan điểm, những đánh giá thuộc trí năng. Chúng ta có quá nhiều cách tẩu thoát khỏi sự kiện. Ví dụ, hãy đưa ra một sự kiện rằng người ta đần độn. Nếu người ta đần độn, đó là một sự kiện. Và khi bạn ý thức rằng bạn đần độn, sự tẩu thoát là cố gắng trở thành khôn ngoan. Nhưng để trở thành nhạy bén, đòi hỏi rằng tổng thể chú ý của bạn được điều khiển đến trạng thái của cái trí mà đần độn đó.
Vì vậy chúng ta cần năng lượng, mà không là kết quả của bất kỳ mâu thuẫn, bất kỳ căng thẳng, nhưng năng lượng hiện diện khi không có nỗ lực. Làm ơn hiểu rõ một sự thật rất thực sự và đơn giản này: chúng ta lãng phí năng lượng của chúng ta qua nỗ lực, và lãng phí của năng lượng đó qua nỗ lực ngăn cản chúng ta không tiếp xúc trực tiếp cùng sự kiện. Khi tôi đang tạo ra một nỗ lực khủng khiếp để lắng nghe bạn, mọi năng lượng của tôi đều dồn trong việc tạo ra nỗ lực, và tôi thực sự không đang lắng nghe. Khi tôi tức giận hay mất kiên nhẫn, mọi năng lượng của tôi đều dồn trong cố gắng để nói, “Tôi phải không tức giận.” Nhưng khi tôi chú ý tổng thể vào tức giận, hay trạng thái của cái trí đó, bằng cách không tẩu thoát qua những từ ngữ, qua những chỉ trích, qua những nhận xét, vậy thì trong trạng thái của chú ý đó có một tự do khỏi sự việc được gọi là tức giận đó. Vì vậy chú ý đó mà là tổng thể của năng lượng không là nỗ lực. Chỉ có cái trí không nỗ lực đó là cái trí tôn giáo. Và, vì vậy, chính cái trí đó một mình có thể tìm ra liệu rằng có, hay liệu rằng không có, Thượng đế.
Vậy thì có một nhân tố khác: chúng ta là những con người bắt chước. Không có gì khởi nguồn. Chúng ta là kết quả của thời gian, của nhiều, nhiều ngày hôm qua. Từ niên thiếu chúng ta đã được nuôi dưỡng để bắt chước, để vâng lời, sao chép lại truyền thống, tuân theo những quyển kinh thánh, tuân theo uy quyền. Chúng ta không đang nói về uy quyền của luật pháp mà phải được tuân theo, nhưng chúng ta đang nói về uy quyền của những quyển kinh thánh, uy quyền tinh thần, khuôn mẫu, công thức. Chúng ta vâng lời và bắt chước.
Khi bạn bắt chước – mà là tuân phục ở bên trong vào một khuôn mẫu, dù bị áp đặt bởi xã hội, hay bởi chính bạn qua trải nghiệm riêng của bạn – tuân phục như thế, bắt chước như thế, vâng lời như thế, hủy diệt sự tinh khiết của năng lượng. Bạn bắt chước, bạn tuân phục, bạn vâng lời uy quyền, bởi vì bạn bị sợ hãi. Một con người mà hiểu rõ, thấy rõ, rất chú ý, không sợ hãi; vì vậy anh ấy không có lý do để bắt chước. Anh ấy là chính anh ấy – dù anh ấy có là gì chăng nữa – tại mỗi khoảnh khắc.
Vì vậy bắt chước, tuân phục một khuôn mẫu tôn giáo, hay không tuân phục một khuôn mẫu tôn giáo nhưng tuân phục trải nghiệm riêng của người ta, vẫn còn là kết quả của sợ hãi. Và một con người bị sợ hãi – dù sợ hãi Thượng đế, dù sợ hãi xã hội, dù sợ hãi chính anh ấy – một con người như thế không là con người tôn giáo. Và một con người chỉ có được tự do khi không có sợ hãi. Vì vậy, anh ấy phải tiếp xúc trực tiếp cùng sợ hãi, không phải qua ý tưởng của sợ hãi.
Tổng thể của năng lượng cốt lõi, không băng hoại, không vấy bẩn chỉ có thể hiện diện khi bạn phủ nhận. Tôi không biết liệu bạn có thấy rằng khi bạn phủ nhận một cái gì đó không như một phản ứng, chính phủ nhận đó sáng tạo năng lượng. Khi bạn phủ nhận, ví dụ như, tham vọng – không phải bởi vì bạn muốn có tinh thần, không phải bởi vì bạn muốn sống an bình, không phải bởi vì bạn muốn Thượng đế hay bất kỳ điều gì khác, nhưng chỉ cho chính nó – khi bạn thấy bản chất hủy diệt hoàn toàn của xung đột liên quan trong tham vọng và phủ nhận nó, chính phủ nhận đó là năng lượng. Tôi không biết liệu có khi nào bạn phủ nhận bất kỳ điều gì không. Khi bạn phủ nhận một vui thú đặc biệt – ví dụ như thế, khi bạn phủ nhận vui thú hút thuốc lá, không phải bởi vì bác sĩ bảo bạn rằng nó không tốt cho hai lá phổi của bạn, không phải bởi vì bạn không có tiền để hút liên tục trong một ngày, không phải bởi vì bạn bị trói buộc trong một thói quen nô lệ, nhưng bởi vì bạn thấy nó không có ý nghĩa – khi bạn phủ nhận nó mà không có một phản ứng, chính phủ nhận đó mang lại một năng lượng. Tương tự như vậy, khi bạn phủ nhận một xã hội – không chạy trốn khỏi nó như một ẩn sĩ, thầy tu, mà những con người tạm gọi là tôn giáo thực hiện, khi bạn phủ nhận trọn vẹn cấu trúc tâm lý của xã hội – từ phủ nhận đó bạn có năng lượng vô biên. Chính động thái phủ nhận đó là năng lượng.
Lúc này vì chính bạn đã thấy, hay đã hiểu rõ, hay đã lắng nghe, bản chất của xung đột, nỗ lực, mà làm lãng phí năng lượng. Và bạn đã hiểu rõ hay đã nhận ra, không phải bằng từ ngữ nhưng thực sự, ý nghĩa của năng lượng này mà không là kết quả của xung đột, nhưng năng lượng mà hiện diện khi cái trí đã hiểu rõ toàn mạng lưới của những tẩu thoát, đè nén, xung đột, bắt chước, sợ hãi. Vậy thì bạn có thể tiến tới, vậy thì bạn có thể khởi đầu tìm ra cho chính bạn điều gì là sự thật, không phải như một tẩu thoát, không phải như một phương tiện lẩn tránh trách nhiệm của bạn trong thế giới này. Bạn chỉ có thể tìm ra điều gì là sự thật, điều gì là tốt lành – nếu có tốt lành – không phải qua niềm tin, nhưng qua thay đổi chính bạn trong liên hệ của bạn với tài sản của bạn, với con người, và với những ý tưởng, và vì vậy được tự do khỏi xã hội. Chỉ đến lúc đó bạn mới có năng lượng đó để tìm ra, không bằng tẩu thoát hay đè nén.
Nếu bạn đã đi xa như thế rồi, vậy thì bạn phải bắt đầu tìm ra bản chất của kỷ luật, mộc mạc mà người ta có, hoặc do truyền thống, hoặc bởi vì bạn đã hiểu rõ. Có một tiến hành tự nhiên của mộc mạc, một tiến hành tự nhiên của kỷ luật, mà không là khổ hạnh, mà không là tuân phục, mà không chỉ đang bắt chước một thói quen vui thú đặc biệt. Và khi bạn đã làm được việc này, bạn sẽ phát giác rằng có một thông minh trong hình thái tột đỉnh của nhạy cảm. Nếu không có nhạy cảm này, bạn không có vẻ đẹp.
Một cái trí tôn giáo phải tỉnh thức được ý thức lạ thường này của nhạy cảm và vẻ đẹp. Cái trí tôn giáo mà chúng ta đang nói hoàn toàn khác hẳn cái trí tôn giáo của truyền thống. Bởi vì đối với một cái trí tôn giáo của truyền thống không có vẻ đẹp; anh ấy hoàn toàn không ý thức về thế giới trong đó chúng ta sống – vẻ đẹp của thế giới, vẻ đẹp của quả đất, vẻ đẹp của quả đồi, vẻ đẹp của một cái cây, vẻ đẹp của một khuôn mặt xinh xinh với nụ cười trên nó. Đối với anh ấy vẻ đẹp là quyến rũ; đối với anh ấy vẻ đẹp là người phụ nữ, mà anh ấy phải lẩn tránh bằng mọi cách để tìm ra Thượng đế. Một cái trí như thế không là một cái trí tôn giáo, bởi vì nó không nhạy cảm đến thế giới – đến thế giới của vẻ đẹp, đến thế giới của dơ bẩn. Bạn không chỉ nhạy cảm đến vẻ đẹp, bạn cũng phải nhạy cảm đến bẩn thỉu, đến dơ dáy, đến cái trí con người vô tổ chức. Nhạy cảm có nghĩa nhạy cảm tổng thể, không chỉ trong một phương hướng đặc biệt. Vì vậy một cái trí mà trong chính nó không ý thức được vẻ đẹp này, không thể tiến xa thêm nữa. Phải có chất lượng nhạy cảm này.
Vậy thì một cái trí như thế, mà là cái trí tôn giáo, hiểu rõ bản chất của chết. Bởi vì nếu nó không hiểu rõ chết, nó không hiểu rõ tình yêu. Chết không là sự kết thúc của cuộc sống. Chết không là một sự kiện bị tạo ra bởi bệnh tật, bởi lão suy, bởi tuổi già, hay bởi tai nạn. Chết là một cái gì đó mà bạn sống hàng ngày cùng nó, bởi vì bạn đang chết mỗi ngày với mọi sự việc mà bạn biết. Nếu bạn không biết chết, bạn sẽ không bao giờ biết tình yêu là gì.
Tình yêu không là ký ức, tình yêu không là một biểu tượng, một bức tranh, một ý tưởng; tình yêu không là một hành động từ thiện; tình yêu không là một đức hạnh. Nếu có tình yêu bạn là người có đức hạnh; bạn không phải đấu tranh để có đức hạnh. Nhưng không có tình yêu, bởi vì bạn không bao giờ hiểu rõ chết là gì – chết đi trải nghiệm của bạn, chết đi những vui thú của bạn, chết đi hình thái đặc biệt của ký ức bí mật mà bạn không ý thức được. Và khi bạn mang ra tất cả việc đó và chết đi mỗi phút – chết đi ngôi nhà của bạn, chết đi những ký ức của bạn, chết đi những vui thú của bạn – một cách tự nguyện và dễ dàng và không nỗ lực, lúc đó bạn sẽ biết tình yêu là gì.
Và nếu không có vẻ đẹp, nếu không có ý thức của chết, nếu không có tình yêu, bạn sẽ không bao giờ tìm được sự thật; dù bạn làm gì chăng nữa, đi đến mọi đền chùa, theo sau mọi vị đạo sư bị sáng chế bởi mọi con người dốt nát, bạn sẽ không bao giờ tìm ra sự thật theo lối đó. Sự thật là sáng tạo.
Sáng tạo không có nghĩa sinh ra những em bé, hay vẽ một bức tranh, hay viết một bài thơ, hay nấu một món ăn ngon. Đó không là sáng tạo, đó chỉ là kết quả của tài năng đặc biệt, một thiên tài hay học một kỹ thuật đặc biệt. Một sáng chế không là sáng tạo. Sáng tạo chỉ có thể được khi bạn chết đi thời gian; đó là khi không có ngày mai. Sáng tạo chỉ có thể xảy ra khi có sự tập hợp toàn bộ của năng lượng mà không có chuyển động nào bên trong hay bên ngoài.
Làm ơn theo sát điều này. Dù bạn hiểu rõ hay không hiểu rõ nó đều không đặt thành vấn đề. Cuộc sống của chúng ta quá tầm thường, quá đau khổ; có quá nhiều thất vọng và quá nhiều phiền muộn. Chúng ta đã sống được hai triệu năm, và chẳng có gì mới mẻ cả. Chúng ta chỉ biết lặp lại, nhàm chán, và sự vô ích hoàn toàn của mỗi hành động mà chúng ta làm. Muốn tạo ra một cái trí mới mẻ, một ý thức của hồn nhiên, một ý thức của trong sáng, phải có nhạy cảm này, chết và tình yêu này, và sáng tạo đó. Sáng tạo đó chỉ có thể xảy ra khi có năng lượng tổng thể này mà không có chuyển động trong bất kỳ phương hướng nào.
Hãy nhìn! Khi cái trí đối diện một vấn đề, nó luôn luôn đang tìm kiếm một phương cách ra khỏi bằng cách cố gắng giải quyết nó, thắng thế nó, đi quanh nó hay vượt khỏi nó hay trên nó, bằng cách luôn luôn làm một cái gì đó với vấn đề, chuyển động bên ngoài hay bên trong. Nếu nó không chuyển động trong bất kỳ phương hướng nào – khi không có chuyển động gì cả, bên trong hay bên ngoài, nhưng chỉ có vấn đề đó – vậy thì sẽ có một nổ tung trong vấn đề đó. Bỗng nhiên bạn làm việc đó và bạn sẽ thấy sự thật của điều gì đang được nói – mà bạn không phải tin tưởng, tranh cãi hay không tranh cãi. Không có uy quyền ở đây.
Vì vậy khi có sự tập hợp năng lượng này mà là kết quả của không nỗ lực, và khi năng lượng đó không chuyển động trong bất kỳ phương hướng nào, tại khoảnh khắc đó có sáng tạo. Và sáng tạo đó là sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn – lúc đó từ ngữ không có ý nghĩa gì. Vậy thì nổ tung đó, sáng tạo đó, là hòa bình; bạn không phải tìm kiếm hòa bình. Sáng tạo đó là vẻ đẹp. Sáng tạo đó là tình yêu.
Chỉ một cái trí tôn giáo như thế có thể tạo ra một trật tự trong thể giới đau khổ, hỗn loạn này. Và đó là trách nhiệm của bạn – của bạn mà không phải của ai khác – khi đang sống trong thế giới này, tạo ra một cuộc sống sáng tạo như thế. Và chỉ một cái trí như thế là cái trí tôn giáo và cái trí thiêng liêng.

Bangalore, ngày 4 tháng 7 năm 1948

Người hỏi: Con người phải biết Thượng đế là gì trước khi anh ấy có thể biết Thượng đế. Làm thế nào ông sẽ giới thiệu ý tưởng về Thượng đế cho con người mà không mang Thượng đế đến mức độ của con người?
Krishnamurti: Bạn không thể, thưa bạn. Bây giờ động cơ đằng sau sự tìm kiếm Thượng đế là gì, và sự tìm kiếm đó có thực sự không? Với hầu hết chúng ta đó là một tẩu thoát khỏi sự thật. Vì vậy chúng ta phải hiểu rõ trong chính chúng ta liệu sự tìm kiếm Thượng đế này là một tẩu thoát hay hay liệu nó là một tìm kiếm sự thật trong mọi thứ – sự thật trong những liên hệ của chúng ta, sự thật trong giá trị của sự việc, sự thật trong những ý tưởng. Nếu chúng ta tìm kiếm Thượng đế chỉ bởi vì chúng ta chán ngán thế giới này cùng những đau khổ của nó, vậy thì đó là một tẩu thoát. Vậy thì chúng ta sáng chế Thượng đế, và vì vậy nó không là Thượng đế. Thượng đế của những đền chùa, của những quyển sách, không là Thượng đế; rõ ràng, nó là một tẩu thoát tuyệt vời. Nhưng nếu chúng ta cố gắng tìm ra sự thật, không phải trong một loạt những hành động loại trừ, nhưng trong tất cả những hành động, những ý tưởng, và những liên hệ của chúng ta, nếu chúng ta tìm kiếm sự đánh giá đúng đắn về lương thực, quần áo, và chỗ ở, vậy thì bởi vì cái trí của chúng ta có thể minh bạch và hiểu rõ, khi chúng ta tìm kiếm sự thật chúng ta sẽ tìm được nó. Lúc đó nó không là một tẩu thoát. Nhưng nếu chúng ta bị rối loạn vì những sự việc của thế giới – lương thực, quần áo, chỗ ở, liên hệ và những ý tưởng – làm thế nào chúng ta có thể tìm ra sự thật? Chúng ta chỉ có thể sáng chế “sự thật”. Vì vậy Thượng đế, sự thật hay chân lý, không dành cho một cái trí bị rối loạn, bị quy định, bị giới hạn. Làm thế nào một cái trí như thế có thể suy nghĩ về sự thật hay Thượng đế? Đầu tiên nó phải tháo gỡ tình trạng bị quy định của chính nó. Nó phải làm tự do chính nó khỏi những giới hạn riêng của nó, và chỉ đến lúc đó nó có thể biết Thượng đế là gì; rõ ràng không phải trước lúc đó. Sự thật là cái không biết được, và cái đã được biết không là sự thật.
Vì vậy một cái trí ao ước biết sự thật phải làm tự do chính nó khỏi tình trạng bị quy định riêng của nó, và tình trạng bị quy định đó được áp đặt hoặc bên ngoài hoặc bên trong; và chừng nào cái trí còn tranh cãi, xung đột trong liên hệ, nó không thể biết sự thật. Vì vậy nếu người ta muốn biết sự thật, cái trí phải tĩnh lặng; nhưng nếu cái trí bị cưỡng bách, bị kỷ luật để tĩnh lặng, tĩnh lặng đó trong chính nó là một giới hạn, nó chỉ là tự thôi miên. Cái trí trở nên tự do và tĩnh lặng chỉ khi nào nó hiểu rõ những giá trị vây bủa chung quanh nó. Vì vậy muốn hiểu rõ cái tột đỉnh, tối thượng, sự thật, chúng ta phải bắt đầu từ rất thấp, rất gần; đó là, chúng ta phải tìm ra giá trị của những sự vật, của liên hệ, của những ý tưởng, mà chúng ta bị bận tâm mỗi ngày. Và nếu không hiểu rõ chúng, làm thế nào cái trí có thể tìm kiếm sự thật? Nó có thể sáng chế “sự thật”, nó có thể sao chép, nó có thể bắt chước; bởi vì nó đã đọc quá nhiều sách, nó có thể lặp lại trải nghiệm của những người khác. Nhưng chắc chắn đó không là sự thật. Muốn trải nghiệm sự thật cái trí phải ngừng sáng chế, bởi vì bất kỳ điều gì nó sáng chế vẫn còn trong ngục tù của thời gian. Vấn đề không là liệu có Thượng đế hay không có Thượng đế, nhưng là con người có lẽ khám phá Thượng đế bằng cách nào. Nếu trong sự tìm kiếm anh ấy tự tháo gỡ chính anh ấy ra khỏi mọi thứ, chắc chắn anh ấy sẽ tìm thấy sự thật đó. Nhưng anh ấy phải bắt đầu bằng những điều gần gũi và không phải những điều xa xa. Rõ ràng muốn đi xa người ta phải bắt đầu từ gần. Nhưng hầu hết chúng ta muốn phỏng đoán, mà là một tẩu thoát rất thuận tiện. Đó là lý do tại sao những tôn giáo dâng tặng một liều thuốc tuyệt vời như thế cho con người.
Vì vậy nhiệm vụ tháo gỡ cái trí khỏi tất cả những giá trị mà nó đã tạo ra là một nhiệm vụ rất gian nan, và bởi vì những cái trí của chúng ta mệt mỏi, hay chúng ta lười biếng, chúng ta thích đọc những quyển sách tôn giáo và phỏng đoán về Thượng đế; nhưng chắc chắn đó không là khám phá sự thật. Đang nhận ra là đang trải nghiệm, không phải đang bắt chước.
Người hỏi: Cái trí có khác người suy nghĩ hay không?
K: Bây giờ, người suy nghĩ có khác biệt những suy nghĩ của anh ấy hay không? Người suy nghĩ tồn tại mà không có những suy nghĩ hay sao? Có một người suy nghĩ tách rời suy nghĩ à? Ngừng suy nghĩ, và người suy nghĩ ở đâu? Người suy nghĩ của một suy nghĩ có khác biệt người suy nghĩ của một suy nghĩ khác hay không? Người suy nghĩ tách rời suy nghĩ của anh ấy, hay suy nghĩ tạo ra người suy nghĩ, mà sau đó nhận dạng chính anh ấy với suy nghĩ khi anh ấy phát giác nó thuận tiện, và tách rời chính anh ấy khi nó không thuận tiện? Đó là, cái “tôi”, người suy nghĩ là gì? Rõ ràng, người suy nghĩ được tạo thành bởi những suy nghĩ khác nhau mà đã bị nhận dạng thành cái “tôi”. Vì vậy những suy nghĩ sinh ra người suy nghĩ, không phải ngược lại. Nếu tôi không có những suy nghĩ, vậy thì không có người suy nghĩ; không phải rằng người suy nghĩ khác biệt mỗi lần suy nghĩ, nhưng nếu không có những suy nghĩ không có người suy nghĩ. Vì vậy những suy nghĩ sinh ra người suy nghĩ, giống như những hành động sinh ra người hành động. Người hành động không sinh ra những hành động

Người hỏi: Trải nghiệm của tôi là rằng nếu không có sự hợp tác của cái “tôi”, không có trực nhận.
K: Chúng ta không thể nói về trực nhận thuần khiết. Trực nhận luôn luôn bị pha trộn cùng người trực nhận – nó là một hiện tượng kết hợp. Nếu chúng ta nói về trực nhận, lập tức người trực nhận lết vào. Nói về trực nhận là vượt khỏi trải nghiệm của chúng ta; chúng ta không bao giờ có một trải nghiệm như trực nhận. Bạn có lẽ chìm trong một giấc ngủ sâu, khi người trực nhận không trực nhận chính anh ấy; nhưng trong giấc ngủ sâu cũng không có trực nhận và người trực nhận. Nếu bạn biết một trạng thái trong đó người trực nhận đang trực nhận chính anh ấy mà không mang vào những sự việc khác của trực nhận, vậy thì chỉ lúc đó bạn nói về người trực nhận mới có giá trị. Chừng nào trạng thái đó không biết được, bạn không có quyền nói về người trực nhận như tách rời khỏi trực nhận. Vì vậy người trực nhận và trực nhận là một hiện tượng kết hợp, chúng là hai mặt của một tấm huy chương. Chúng không tách rời và chúng ta không có quyền tách rời hai sự vật không tách rời. Chúng ta quả quyết tách rời người trực nhận khỏi trực nhận khi không có một nền tảng giá trị nào cho nó. Chúng ta không biết người trực nhận nếu không có trực nhận, và chúng ta không biết trực nhận nếu không có người trực nhận. Vì vậy, kết luận giá trị duy nhất là rằng trực nhận và người trực nhận, cái “tôi” và ý muốn là hai mặt của cùng một tấm huy chương; chúng là hai diện mạo của cùng một hiện tượng, mà không là trực nhận lẫn người trực nhận. Nhưng một tìm hiểu chính xác về nó yêu cầu chú ý tổng thể.
Người hỏi: Điều đó dẫn chúng ta đến đâu?
K: Thưa bạn câu hỏi này nảy sinh từ sự tìm hiểu về tìm kiếm Thượng đế. Rõ ràng, hầu hết chúng ta đều muốn biết trải nghiệm về sự thật. Chắc chắn nó có thể biết được chỉ khi nào người trải nghiệm ngừng trải nghiệm, bởi vì người trải nghiệm đang tạo ra trải nghiệm. Nếu người trải nghiệm đang tạo ra trải nghiệm, vậy thì anh ấy sẽ sáng chế Thượng đế; vì vậy đó sẽ không là Thượng đế. Người trải nghiệm có thể kết thúc không? Đó là điểm chính trong câu hỏi này. Bây giờ người trải nghiệm và trải nghiệm là một hiện tượng kết hợp, mà điều đó quá rõ ràng, vậy thì người trải nghiệm, người hành động, người suy nghĩ, phải ngừng suy nghĩ. Điều đó không rõ ràng à? Vì vậy liệu người suy nghĩ có thể chấm dứt suy nghĩ hay không? Bởi vì khi anh ấy suy nghĩ, anh ấy sáng chế, và cái gì anh ấy sáng chế không là sự thật. Vì vậy muốn tìm ra liệu có hay không có sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, qui trình suy nghĩ phải kết thúc, mà có nghĩa rằng người suy nghĩ phải ngừng lại – liệu anh ấy có được tạo ra bởi những suy nghĩ hay không không có liên quan trong lúc này. Toàn qui trình suy nghĩ, mà gồm cả người suy nghĩ, phải kết thúc. Chỉ đến lúc đó chúng ta sẽ tìm được sự thật. Bây giờ, trước hết, khi mang qui trình đó đến một kết thúc, làm thế nào thực hiện nó, và ai sẽ thực hiện nó? Nếu người suy nghĩ thực hiện nó, người suy nghĩ vẫn còn là sản phẩm của tư tưởng. Người suy nghĩ đang kết thúc một tư tưởng vẫn còn là sự tiếp tục của tư tưởng. Vì vậy người suy nghĩ phải làm gì đây? Bất kỳ khẳng định nào về phần của anh ấy vẫn còn là qui trình của suy nghĩ. Tôi hy vọng tôi đang trình bày rõ ràng.

Người hỏi: Tại sao chúng ta quả quyết tách rời người trực nhận khỏi trực nhận, người ghi nhớ khỏi ký ức? Điều này không là gốc rễ của rắc rối hay sao?
K: Chúng ta tách rời nó bởi vì người ghi nhớ, người trải nghiệm, người suy nghĩ, trở thành vĩnh cửu bằng tách rời. Rõ ràng những kỷ niệm đang trôi qua mau lẹ; vì vậy người ghi nhớ, người trải nghiệm, cái trí, tách rời chính nó bởi vì nó muốn vĩnh cửu. Cái trí mà đang tạo ra một nỗ lực, đang cố gắng, đang chọn lựa, bị kỷ luật, rõ ràng không thể tìm ra sự thật; bởi vì như chúng ta đã nói, qua chính nỗ lực đó nó tự chiếu rọi chính nó và duy trì người suy nghĩ. Bây giờ, bằng cách nào làm tự do người suy nghĩ khỏi những suy nghĩ của anh ấy? Đây là điều gì chúng ta đang thảo luận. Bởi vì bất kỳ điều gì anh ấy đang suy nghĩ là kết quả của quá khứ, và vì vậy anh ấy sáng chế Thượng đế, sự thật, từ ký ức, mà rõ ràng không là sự thật. Nói cách khác, cái trí liên tục đang chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết. Khi ký ức vận hành, cái trí có thể chuyển động chỉ trong lãnh vực của cái đã được biết, và khi nó chuyển động trong lãnh vực của cái đã được biết, nó không bao giờ biết cái không biết được. Vì vậy vấn đề của chúng ta là bằng cách nào làm tự do cái trí khỏi cái đã được biết. Muốn làm tự do chính chúng ta khỏi cái đã được biết, bất kỳ nỗ lực nào đều gây hủy hoại bởi vì nỗ lực vẫn còn thuộc cái đã được biết. Vì vậy tất cả mọi nỗ lực phải chấm dứt. Bạn có khi nào cố gắng để hiện hữu mà không có nỗ lực hay không? Nếu tôi hiểu rõ rằng mọi nỗ lực đều vô ích, rằng mọi nỗ lực là một tự chiếu rọi thêm nữa của cái trí, của cái “tôi”, của người suy nghĩ, nếu tôi thấy sự thật của điều đó, điều gì xảy ra? Nếu tôi thấy rất rõ ràng nhãn hiệu “thuốc độc” trên một cái chai, tôi bỏ nó lại. Không còn nỗ lực để không bị cuốn hút vào nó. Tương tự như vậy – có khó khăn ghê lắm trong việc này – nếu tôi thấy rằng bất kỳ nỗ lực nào về phần tôi là gây hủy hoại, nếu tôi thấy sự thật của điều đó, vậy thì tôi được tự do khỏi nỗ lực. Bất kỳ nỗ lực nào về phần của chúng ta là gây hủy hoại, nhưng chúng ta hoang mang, bởi vì chúng ta muốn một kết quả, chúng ta muốn một thành tựu – và đó là khó khăn của chúng ta. Vì vậy, chúng ta tiếp tục cố gắng, cố gắng, cố gắng. Nhưng Thượng đế, sự thật, không là một kết quả, một phần thưởng, một kết thúc. Chắc chắn nó phải đến với chúng ta, chúng ta không thể đến với nó. Nếu chúng ta tạo một nỗ lực để đến với nó, chúng ta đang tìm kiếm một kết quả, một thành tựu. Nhưng muốn sự thật đến, con người phải tỉnh thức thụ động. Tỉnh thức thụ động là một trạng thái trong đó, không có nỗ lực; nó là tỉnh thức không nhận xét, không chọn lựa, không trong một ý thức tối thượng nào, nhưng trong mọi cách; nó là tỉnh thức được những hành động của bạn, những suy nghĩ của bạn, những đáp lại trong liên hệ của bạn, không chọn lựa, không chỉ trích, không nhận dạng hay phủ nhận, để cho cái trí bắt đầu hiểu rõ mọi suy nghĩ và mọi hành động mà không đánh giá. Việc này khơi dậy một nghi vấn của liệu có thể hiểu rõ mà không suy nghĩ.
Người hỏi: Chắc chắn nếu bạn không dửng dưng đến một cái gì đó ….
K: Thưa bạn, dửng dưng là một hình thức của đánh giá. Một cái trí đờ đẫn, một cái trí dửng dưng, không tỉnh thức. Thấy mà không đánh giá, hiểu rõ chính xác điều gì đang xảy ra, là tỉnh thức. Vì vậy thật hão huyền khi tìm kiếm Thượng đế hay sự thật mà không tỉnh thức ngay lúc này, trong hiện tại tức khắc. Dễ dàng hơn nhiều khi đến một ngôi đền, nhưng đó là một tẩu thoát vào lãnh vực của phỏng đoán. Muốn hiểu rõ sự thật, chúng ta phải biết nó trực tiếp, và chắc chắn rằng sự thật không thuộc thời gian và không gian; nó ở trong hiện tại, và hiện tại là suy nghĩ và hành động riêng của chúng ta.
Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

Người hỏi: Người ta có thể thương yêu sự thật mà không thương yêu con người hay không? Người ta có thể thương yêu con người mà không thương yêu sự thật hay không? Cái nào đến trước?
K: Chắc chắn, thưa bạn, tình yêu đến trước. Bởi vì muốn thương yêu sự thật bạn phải biết sự thật, và biết sự thật là phủ nhận nó. Cái gì đã được biết không là sự thật bởi vì cái gì đã được biết đã bị bao phủ trong thời gian; vì vậy nó ngừng là sự thật. Sự thật trong chuyển động liên tục và vì vậy không thể được đo lường trong thời gian hay trong những từ ngữ; nó không thể bị nhốt chặt trong nắm tay của bạn. Vì vậy thương yêu sự thật là biết sự thật – bạn không thể thương yêu một cái gì đó mà bạn không biết. Nhưng sự thật không phải được tìm kiếm trong những quyển sách, trong tôn thờ những hình tượng, trong những đền chùa. Nó phải được tìm thấy trong hành động, trong đang sống, trong đang suy nghĩ; và vì vậy tình yêu đến trước – điều đó rõ ràng, tìm kiếm cái không biết được chính là tình yêu, và bạn không thể tìm kiếm cái không biết được nếu không ở trong liên hệ với những người khác. Bạn không thể tìm ra sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, bằng cách rút vào cô lập. Bạn có thể tìm ra cái không biết được chỉ trong liên hệ, chỉ khi con người liên hệ với con người. Vì vậy tình yêu con người là sự tìm kiếm sự thật.
Nếu không thương yêu con người, nếu không thương yêu nhân loại, không thể nào có một tìm kiếm sự thật; bởi vì khi tôi biết bạn – ít nhất khi tôi cố gắng biết bạn trong liên hệ – trong liên hệ đó tôi đang khởi đầu biết chính mình. Liên hệ là một cái gương trong đó tôi đang tự khám phá chính mình, không phải cái tôi “cao hơn” của tôi, nhưng tiến hành trọn vẹn, tổng thể của chính tôi. Cái tôi “cao hơn” và cái tôi “thấp hơn” vẫn còn trong lãnh vực của cái trí; và nếu không hiểu rõ cái trí, người suy nghĩ, làm thế nào tôi có thể vượt khỏi tư tưởng, và khám phá? Chính liên hệ là tìm kiếm sự thật bởi vì đó là cách tiếp xúc duy nhất tôi có với chính bản thân tôi; vì vậy hiểu rõ về chính tôi trong liên hệ là khởi đầu của sống, chắc chắn như vậy. Nếu tôi không biết làm thế nào để thương yêu bạn, bạn là người tôi đang liên hệ, làm thế nào tôi có thể tìm kiếm sự thật, và vì vậy thương yêu sự thật? Nếu không có bạn, tôi không hiện hữu, đúng chứ? Tôi không thể tồn tại tách rời khỏi bạn, tôi không thể tồn tại trong cô lập. Vì vậy trong liên hệ của chúng ta, trong liên hệ giữa bạn và tôi, tôi đang khởi đầu hiểu rõ chính tôi; và hiểu rõ về chính tôi là khởi đầu của thông minh, phải vậy không? Vì vậy tìm kiếm sự thật là khởi đầu của tình yêu trong liên hệ. Muốn thương yêu một cái gì đó bạn phải biết nó, bạn phải hiểu rõ nó, phải vậy không? Muốn thương yêu bạn tôi phải biết bạn, tôi phải tìm hiểu, tôi phải tìm ra, tôi phải thâu nhận tất cả những tâm trạng của bạn, những thay đổi của bạn, và không phải khép kín chính bản thân tôi trong những tham vọng, những theo đuổi, và những ham muốn của tôi. Và trong biết bạn tôi đang khởi đầu khám phá chính bản thân tôi. Nếu không có bạn, tôi không thể hiện hữu; và nếu tôi không hiểu rõ liên hệ đó giữa bạn và tôi, làm thế nào có thể có tình yêu? Và chắc chắn nếu không có tình yêu không có tìm kiếm, đúng chứ? Bạn không thể nói rằng người ta phải thương yêu sự thật; bởi vì muốn thương yêu sự thật, bạn phải biết sự thật. Bạn biết sự thật không? Bạn biết sự thật là gì không? Ngay khoảnh khắc bạn biết một cái gì đó, nó đã trôi qua rồi, phải không? Nó đã ở trong lãnh vực của thời gian rồi, vì vậy nó ngừng là sự thật.
Vấn đề của chúng ta là: làm thế nào một tâm hồn cằn cỗi, một tâm hồn trống rỗng, biết được sự thật? Nó không thể. Sự thật không là một điều gì đó xa xôi. Nó rất gần gũi, nhưng chúng ta không biết tìm kiếm nó như thế nào. Muốn tìm kiếm nó, chúng ta phải hiểu rõ liên hệ, không chỉ với con người mà còn với thiên nhiên, với những ý tưởng. Tôi phải hiểu rõ liên hệ của tôi với quả đất, và liên hệ của tôi với sự hình thành ý tưởng, cũng như liên hệ của tôi với bạn; và với mục đích hiểu rõ, chắc chắn phải có khoáng đạt. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải khoáng đạt với bạn, tôi phải thâu nhận, tôi không được bám chặt bất kỳ cái gì, không thể có một qui trình cô lập. Trong hiểu rõ có sự thật, và muốn hiểu rõ phải có tình yêu; vì nếu không có tình yêu, không thể có hiểu rõ. Vì vậy không phải con người hay sự thật đến trước, nhưng tình yêu; và tình yêu hiện hữu chỉ trong hiểu rõ liên hệ, mà có nghĩa rằng người ta khoáng đạt trong liên hệ, và vì vậy mở toang đến sự thật. Sự thật không thể được mời mọc, nó phải đến với bạn. Tìm kiếm sự thật là phủ nhận sự thật. Sự thật đến với bạn khi bạn khoáng đạt, khi bạn hoàn toàn không có một rào chắn, khi người suy nghĩ không còn đang suy nghĩ, đang tạo tác, đang sáng chế, khi cái trí rất tĩnh lặng – không bị cưỡng bách, không bị áp lực của thuốc men, không bị thuộc lòng bởi những từ ngữ, bởi lặp lại. Sự thật phải đến. Khi người suy nghĩ tìm kiếm sự thật, anh ấy chỉ đang theo đuổi lợi lộc riêng của anh ấy. Vì vậy sự thật lẩn tránh anh ấy Người suy nghĩ có thể quan sát được chỉ trong liên hệ; và muốn hiểu rõ phải có tình yêu. Nếu không có tình yêu không có tìm kiếm.
Người hỏi: Ông không bao giờ đề cập Thượng đế. Ngài không có vị trí trong những lời giáo huấn của ông à?
K: Bạn nói nhiều về Thượng đế phải không? Những quyển sách của bạn đầy ắp nó. Bạn xây dựng những nhà thờ, những đền chùa, bạn thực hiện những hiến dâng, bạn làm những nghi lễ, tổ chức những thánh lễ, và bạn ngập tràn những ý tưởng về Thượng đế, phải không? Bạn lặp lại những từ ngữ, nhưng những hành động của bạn không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn tôn thờ điều gì bạn gọi là Thượng đế, những phương cách của bạn, những suy nghĩ của bạn, sự tồn tại của bạn, không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn lặp lại từ ngữ Thượng đế, bạn bóc lột những người khác, phải không? Bạn có những vị Thượng đế của bạn – Ấn độ giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, và những tôn giáo khác. Bạn dựng lên những đền chùa, và bạn càng giàu có bao nhiêu, bạn càng dựng lên những đền chùa nhiều bấy nhiêu. [Tiếng cười]. Đừng cười. Chính bạn muốn làm điều đó – chỉ vì bạn vẫn đang cố gắng trở nên giàu có, đó là tất cả.
Vì vậy bạn rất thân thuộc với Thượng đế, ít ra bằng từ ngữ; nhưng từ ngữ không là Thượng đế, từ ngữ không là sự việc. Chúng ta hãy rất rõ ràng về quan điểm này: từ ngữ không là Thượng đế. Bạn có lẽ sử dụng từ ngữ Thượng đế hay từ ngữ nào khác, nhưng Thượng đế không là từ ngữ mà bạn sử dụng. Bởi vì bạn sử dụng nó, điều đó không có nghĩa rằng bạn biết Thượng đế; bạn chỉ biết từ ngữ. Tôi không sử dụng từ ngữ đó bởi lý do rất đơn giản là bạn biết nó. Điều gì bạn biết không là sự thật. Và ngoài ra, muốn tìm ra sự thật, tất cả những huyên thuyên thuộc từ ngữ của cái trí phải kết thúc, đúng chứ? Bạn có những hình ảnh về Thượng đế, nhưng hình ảnh không là Thượng đế, chắc chắn như thế. Làm thế nào bạn có thể biết được Thượng đế? Rõ ràng không qua một hình ảnh, không qua một đền chùa. Muốn thâu nhận Thượng đế, cái không biết được, cái trí phải là cái không biết được. Nếu bạn theo đuổi Thượng đế, vậy thì bạn đã biết Thượng đế rồi, bạn biết cái kết thúc. Bạn biết cái gì bạn đang theo đuổi, phải không? Nếu bạn tìm kiếm Thượng đế, bạn phải biết Thượng đế là gì; nếu không bạn sẽ không tìm kiếm Ngài, phải không? Bạn tìm kiếm Ngài hoặc tùy theo những quyển sách của bạn, hoặc tùy theo những cảm thấy của bạn, và những cảm thấy của bạn chỉ là sự phản hồi của ký ức. Vì vậy cái bạn tìm kiếm đã được tạo tác trước rồi, hoặc nhờ vào ký ức hoặc bởi nghe người ta nói, và cái được sáng chế không là cái vĩnh cửu – nó là sản phẩm của cái trí. Nếu không có những quyển sách, nếu không có những vị đạo sư, không có những công thức để được lặp lại, bạn chỉ biết đau khổ và hạnh phúc, phải không? – đau khổ và sầu muộn liên tục, và những khoảnh khắc hiếm hoi của hạnh phúc. Và thế là bạn muốn biết tại sao bạn đau khổ. Bạn không thể tẩu thoát đến Thượng đế – nhưng bạn có thể tẩu thoát trong những phương cách khác, và chẳng mấy chốc sáng chế những vị Thượng đế như một tẩu thoát. Nhưng nếu bạn thực sự muốn hiểu rõ toàn qui trình của đau khổ, như một con người mới mẻ, một con người trong sáng, đang tìm hiểu và không đang tẩu thoát, vậy thì bạn sẽ làm tự do chính bạn khỏi đau khổ, vậy thì bạn sẽ tìm ra sự thật là gì, Thượng đế là gì. Nhưng một con người trong đau khổ không thể tìm ra Thượng đế hay sự thật; sự thật có thể tìm được chỉ khi nào đau khổ kết thúc, khi có hạnh phúc, không phải như một tương phản, không phải như một đối nghịch, nhưng trạng thái tồn tại đó mà không có những đối nghịch.
Vì vậy cái không biết được, cái đó mà không bị sáng chế bởi cái trí, không thể được hình thành bởi cái trí. Cái không biết được không thể được suy nghĩ về nó. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó là cái đã được biết rồi. Chắc chắn bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, đúng chứ? Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết. Tư tưởng chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết; và cái gì đã được biết không là sự thật, đúng chứ? Vì vậy, khi bạn suy nghĩ và thiền định, khi bạn ngồi xưống và suy nghĩ về Thượng đế, bạn chỉ suy nghĩ về cái gì đã được biết, và cái gì đã được biết ở trong thời gian; nó bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian, và vì vậy không là sự thật. Sự thật có thể hiện diện chỉ khi nào cái trí được tự do khỏi mạng lưới của thời gian. Khi cái trí không còn tạo tác, có sáng tạo. Đó là cái trí phải tuyệt đối tĩnh lặng, nhưng không phải với một trạng thái chết lặng bị thôi miên, bị kích thích, đó chỉ là một kết quả. Cố gắng để trở nên tĩnh lặng vì mục đích trải nghiệm sự thật là một hình thức khác của tẩu thoát. Có tĩnh lặng chỉ khi nào mọi vấn đề đã kết thúc. Như cái ao lặng yên khi cơn gió ngừng lại, vì vậy cái trí tự nhiên tĩnh lặng khi người kích động, người suy nghĩ, không còn. Muốn kết thúc người suy nghĩ, tất cả những suy nghĩ mà anh ấy sáng chế phải được nở hoa. Thật không tốt gì khi dựng lên một rào chắn, một kháng cự lại suy nghĩ, bởi vì những suy nghĩ phải được thấy trọn vẹn.
Khi cái trí tĩnh lặng, sự thật, cái không thể diễn tả được, hiện diện. Bạn không thể mời mọc nó. Muốn mời mọc nó, bạn phải biết nó, và cái gì đã được biết không là sự thật. Vì vậy cái trí phải đơn giản, không bị chất nặng bởi niềm tin, bởi ý tưởng. Và khi có tĩnh lặng, khi không có ham muốn, không có khao khát, khi cái trí tuyệt đối tĩnh lặng cùng một yên lặng không bị thôi thúc, lúc đó sự thật đến. Và sự thật đó, chân lý đó, là tác nhân duy nhất gây thay đổi; nó là yếu tố duy nhất mang lại một cách mạng triệt để, cơ bản trong tồn tại, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Và muốn tìm ra sự thật đó không phải là tìm kiếm nó, nhưng hiểu rõ những yếu tố gây kích động cái trí, gây rối ren cho chính cái trí đó. Vậy thì cái trí đơn giản, yên lặng, tĩnh lặng. Trong tĩnh lặng đó, cái không biết được, cái không thể biết, hiện diện. Và khi việc đó xảy ra, có hạnh phúc vô cùng.

Chia sẻ · 25 Tháng 8 2012
Chuong Sang thích nội dung này.